Soạn Vội Vàng – Xuân Diệu Trang 21-23 Ngữ văn 11 Tập 2

HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Câu 1(Soạn Vội Vàng – Xuân Diệu): Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn.

Trả lời:

Bài thơ là dòng cảm xúc mãnh liệt, dào dạt, tuôn trào nhưng vẫn tuân theo mạch luận lí, có bố cục chặt chẽ. Bài thơ có thể được chia thành ba đoạn:

– Đoạn 1 (13 câu thơ đầu): Bộc lộ tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.

– Đoạn 2 (từ câu 14 đến câu 29): Nỗi bãn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian.

– Đoạn 3 (còn lại): Lời giục giã cuống quýt, vội vàng để tận hưởng những giây phút tuổi xuân của mình giữa mùa xuân của cuộc đời, của vũ trụ.

Ba đoạn thơ này vận động vừa rất tự nhiên về cảm xúc vừa rất chặt chẽ về luận lí. Nó làm cho bài thơ như là một dòng chảy dào dạt, hồn nhiên của tâm trạng.

Câu 2(Soạn Vội Vàng – Xuân Diệu): Xuân Diệu cảm nhận về thời gian như thế nào? Vì sao nhà thơ có tâm trạng vội vàng, cuống quýt trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian?

Trả lời:

– Cảm nhận của Xuân Diệu về thời gian:

Thời gian của tự nhiên thì luôn tuân thủ theo quy luật vận động bất biến. Nhưng quan niệm về thời gian, sự cảm nhận về thời gian thì ở mỗi thời đại và ở mỗi cá nhân lại có thể có những nét khác nhau:

+ Thơ Xuân Diệu và nhất là trong Vội vàng, Xuân Diệu đã đưa ra một quan niệm mới, một cảm nhận mới về thời gian. Nếu các nhà thơ trung đại quan niệm thời gian là tuần hoàn, là vĩnh cửu thì Xuân Diệu, nhờ tri thức khoa học của thời đại và ảnh hưởng của văn hoá phương Tây đã nhận ra thời gian vận động tuyến tính, một đi không trở lại.

+ Thời gian thật sự khắc nghiệt, đời người có hạn và tuổi xuân ngắn ngủi.

+ Thực ra thì từ xa xưa, nhiều thi nhân đã từng than thở về sự ngắn ngủi của đời người. Người ta gọi kiếp người là “áng phù vân” là “bóng câu qua cửa sổ”,… Nhưng do xuất phát từ cái nhìn tĩnh tại, có tính siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian nên quan niệm thời gian là tuần hoàn. Thời ấy, cá nhân chưa tách khỏi cộng đồng, con người còn gắn làm một với vũ trụ, cho nên người ta vẫn đinh ninh người chết chưa hẳn là hư vô, vẫn có thể cùng với cộng đồng và trời đất tuần hoàn. Vì thế nhân vật trữ tình trong thơ ca trung đại thường ở tư thế ung dung, tự tại, bình tĩnh, ít thấy có sự vội vàng, cuống quýt để “sống gấp”.

Đến thế hệ các nhà thơ mới, khi ý thức cá nhân đã trỗi dậy mạnh mẽ, quan niệm vể thời gian như trên đã hoàn toàn đổ vỡ. Xuân Diệu đưa ra một quan niệm mới, chống đối lại quan niệm thời gian tuần hoàn của người xưa. Với ông hoàng Xuân Diệu, thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại. Vũ trụ không ngừng vận động, thời gian luôn luôn chảy trôi, mỗi giây phút trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, rất biện chứng về vũ trụ và thời gian:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

+ Nhà thơ đã lấy cái quỹ thời gian hữu hạn của đời người, thậm chí lấy khoảng thời gian quý giá nhất của mỗi cá nhân là tuổi trẻ để làm thước đo thời gian. Lời thơ được cấu trúc thành một cuộc tranh biện, theo đó nhà thơ khẳng định dẫu vũ trụ có thể vĩnh viễn, thời gian có thể tuần hoàn, nhưng “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”:

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời,

+ Nhìn thấu sự trôi chảy quá nhanh chóng, một đi không trở lại của thời gian nên cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát, mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát, chia lìa: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi – Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Mỗi sự vật trong vũ trụ đang từng giây, từng phút ngậm ngùi chia ly, tiễn biệt một phần của đời mình:

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

=> Cách cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu, xét đến cùng là do ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời, nâng niu trân trọng từng giây, từng phút của cuộc đời, nhất là những năm tháng tuổi trẻ. Trong hoàn cảnh bình thường của đất nước, đây là một quan niệm và thái độ sống tích cực, thấm đượm tư tưởng nhân văn.

Câu 3(Soạn Vội Vàng – Xuân Diệu): Hình ảnh thiên nhiên, sự sống quen thuộc được tác giả cảm nhận và diễn tả như thế nào? Hãy chỉ ra những nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc.

Trả lời:

– Trong cảm nhận và diễn tả của Xuân Diệu, thiên nhiên cùng sự sống quen thuộc hiện lên mới mẻ, sống động, tươi đẹp, tràn đầy màu sắc, thanh âm và niềm vui:

+ Sự sống ngồn ngộn, tươi tắn, đa dạng, tràn đầy sức sống qua những hình ảnh sống động.

+ Thanh âm tình tứ, du dương, say đắm.

 + Màu sắc phong phú: màu rực rỡ của hoa, màu xanh của đồng nội, màu trắng của ánh sáng, màu non bóng của cành tơ…

+ Cảnh vật hiện lên mới mẻ, độc đáo qua cách diễn tả mới lạ:

  • Ánh sáng chớp hàng mi(lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp).
  • Thần Vui hằng gõ cửatháng Giêng ngon như một cặp môi gần(hình ảnh gợi cảm, biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác),…

– Nét mới trong quan niệm của Xuân Diệu về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc:

+ Cuộc sống vô cùng tươi đẹp và đáng quý, đó là thiên đường giữa trần gian.

+ Tuổi trẻ là thời gian đáng quý nhất, ý nghĩa nhất, đẹp đẽ nhất trong đời người.

+ Hạnh phúc lớn nhất, tuyệt diệu nhất của con người chính là tình yêu.

⇒ Cuộc sống, tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc gắn bó chặt chẽ với nhau. Tóm lại, giữa cuộc đời hương sắc, tuổi trẻ và tình yêu là những điều quý giá nhất của con người.

Câu 4(Soạn Vội Vàng – Xuân Diệu): Hãy nhận xét về đặc điểm của hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu trong đoạn thơ cuối của bài thơ. Nhà thơ đã sáng tạo được hình ảnh nào mà anh (chị) cho là mới mẻ, độc đáo nhất?

Trả lời:

Trong đoạn thơ cuối này, Xuân Diệu tả cảnh sắc mùa xuân về với thời non tươi của nó để tận hưởng. Hàng loạt hình ảnh tiếp tục làm nổi bật vẻ quyến rũ của sự sống đầy sắc hương nhưng không phải để tả mà chủ yếu để diễn đạt sự cuồng nhiệt, vội vàng tận hưởng của tác giả.

– Hình ảnh trong đoạn thơ cuối gần gũi, quen thuộc mà tươi mới, giàu sức sống, đầy quyến rũ và tình tứ. Đó là những hình ảnh rất táo bạo, đầy cảm giác và có tính sắc dục.

– Ngôn từ của bài thơ tự nhiên, gần với lời nói thường, nhưng đã được nâng lên thành nghệ thuật, cảm xúc dào dạt, mãnh liệt đã tạo nên những làn sóng ngôn từ vừa đan vào với nhau, vừa cộng hưởng với nhau theo chiều tăng tiến. Tác giả dùng dồn dập những động từ mạnh, tăng tiến chỉ động tác đắm say; nhiều danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân, tươi trẻ; nhiều tính từ chỉ xuân sắc; nhiều điệp từ, điệp cú pháp có tác dụng nhấn mạnh ý.

Nhịp điệu của đoạn thơ dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.

LUYỆN TẬP

(Soạn Vội Vàng – Xuân Diệu)

Trong Nhà văn hiện đại, nhà phê bình, nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan đã viết : “Với những nguồn cảm hứng mới: yêu đương và tuổi xuân, dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời thấm thía.”

Qua phân tích bài thơ Vội vàng, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên

Trả lời:

– Câu nói của Vũ Ngọc Phan là một nhận định chung, mang tính khái quát về Xuân Diệu và thơ Xuân Diệu. Nhận định đó có hai ý:

+ Thơ Xuân Diệu có hai nguồn cảm hứng mới: yêu đương và tuổi xuân.

+ Dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời thấm thía.

– Cần vận dụng câu nói đó vào trường hợp bài thơ Vội vàng của ông, có nghĩa là phân tích bài thơ để làm sáng tỏ nhận định của Vũ Ngọc Phan. Cách vận dụng như sau:

+ Trong bài Vội vàng, ý “yêu đương” chưa rõ, cần khai thác cảm hứng “tuổi xuân” (tức tuổi trẻ) để làm bài.

+ Chứng minh rằng, với cảm hứng “tuổi xuân” lúc nào Xuân Diệu cũng là thanh niên với giọng yêu đời thắm thiết. Cụ thể là:

Lúc vui: đoạn 1 và đoạn 3 đều ru thanh niên bằng giọng yêu đời thắm thiết (chứng minh qua bức tranh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống con người; qua sự cuồng nhiệt, hối hả, vội vàng của nhà thơ đến với cuộc sống để “ôm” cuộc sống ấy vào lòng mà tận hưởng).

Lúc buồn: đoạn 2: Ngay cả khi lo sợ thời gian trôi nhanh cướp mất tuổi xuân của mình, nhà thơ băn khoăn lo lắng, nhưng trong cái băn khoăn đó vẫn bộc lộ niềm yêu đời, yêu cuộc sống của mình bằng những câu thơ tha thiết với tuổi trẻ và mùa xuân như muốn níu kéo tuổi xuân ở mãi với mình.