III – NHỮNG CHỨC NĂNG KHÁC

Xét những đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

a) Năm nay đào lại nở,

Không thấy ông đồ xưa.

Những người muôn năm cũ,

Hồn ở đâu bây giờ?

(Vũ Đình Liên, Ông đồ)

b) Cai lệ không để cho chị Dậu được nói hết câu, trợn ngược hai mắt, hắn quát:

– Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất!

(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)

c) Đê vỡ rồi!… Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?

(Phạm Duy Tốn, Sống chết mặc bay)

d) Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực lạ lùng của văn chương hay sao?

(Hoài Thanh, Ý nghĩa văn chương)

e) Đến lượt bố tôi ngây người ra như không tin vào mắt mình.

– Con gái tôi vẽ đây ư? Chả lẽ lại đúng là nó, cái con Mèo hay lục lọi ấy!

(Tạ Duy Anh, Bức tranh của em gái tôi)

Câu hỏi:

– Trong những đoạn trích trên, câu nào là câu nghi vấn?

– Câu nghi vấn trong những đoạn trích trên có dùng để hỏi không? Nếu không dùng để hỏi thì dùng để làm gì?

– Nhận xét về dấu kết thúc những câu nghi vấn trên (có phải bao giờ cũng là dấu chấm hỏi không?).

Trả lời:

Các câu nghi vấn trong những đoạn trích trên là:

+ Hồn ở đâu bây giờ? (câu a)

+ Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? (câu b)

+ Có biết không? Có biết không?… Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à? (câu c)

+ Một người hằng ngày chỉ cặm cụi lo lắng vì mình, thế mà khi xem truyện hay ngâm thơ có thể vui, buồn, mừng, giận cùng những người ở đâu đâu, vì những chuyện ở đâu đâu, há chẳng phải là chứng cớ cho cái mãnh lực lạ lùng của văn chương hay sao? (câu d)

+ Con gái tôi vẽ đây ư? Chả lẽ lại đúng là nó, cái con Mèo hay lục lọi ấy! (câu e)

Các câu nghi vấn trong các đoạn trích trên không dùng để hỏi, mà dùng để:

+ Câu a dùng để bộc lộ sự tiếc nuối, hoài cổ của tác giả khi không thấy ông đồ

+ Câu b bộc lộ sự tức giận, đe dọa của tên cai lệ

+ Câu c bộc lộ sự đe dọa, quát nạt của tên quan hộ đê

+ Câu d khẳng định vai trò của văn chương trong đời sống

+ Câu e bộc lộ sự ngạc nhiên của người bố

– Nhận xét về dấu kết thúc những câu nghi vấn trên

– Các câu nghi vấn trên kết thúc bằng dấu chấm hỏi nhưng không yêu cầu người đối thoại trả lời. Tuy nhiên, không phải tất cả các câu nghi vấn đều kết thúc bằng dấu chấm hỏi. Ví dụ, ở đoạn văn e, câu nghi vấn thứ 2 kết thúc bằng dấu chấm than: “Chả lẽ lại đúng là nó, cái con Mèo hay lục lọi ấy!”.

IV – LUYỆN TẬP

cau nghi van

Câu hỏi 1 : Xác định câu nghi vấn trong các đoạn sau. Những câu nghi vấn đó được dùng làm gì?

a) Hỡi ơi Lão Hạc! Thì ra đến lúc cùng, lão cũng có thể làm liều như ai hết… Một người như thế ấy!… Một người đã khóc vì trót lừa một con chó!… Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi không muốn liên luỵ đến hàng xóm, láng giềng… Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Binh Tư để có ăn ư? Cuộc đời quả thật cứ mỗi ngày một thêm đáng buồn…

(Nam Cao, Lão Hạc)

b) Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

(Thế Lữ, Nhớ rừng)

c) Mỗi chiếc lá rụng là một cái biểu hiện cho một cảnh biệt li. Vậy thì sự biệt li không chỉ có một nghĩa buồn rầu, khổ sở. Sao ta không ngắm sự biệt li theo tâm hồn một chiếc lá nhẹ nhàng rơi?

(Khái Hưng, Lá rụng)

d) Vâng, thử tưởng tượng một quả bong bóng không bao giờ vỡ, không thể bay mất, nó cứ còn mãi như một vật lì lợm… Ôi, nếu thế thì còn đâu là quả bóng bay?

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Người ham chơi)

Trả lời:

– Các câu nghi vấn trong đoạn trích trên và tác dụng của chúng:

+ Con người đáng kính ấy bây giờ cũng theo gót Bình Tư để có ăn ư? => bộc lộ sự ngạc nhiên đến sững sờ của ông giáo

+ Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?/Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?/Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?/Để ta chiếm riêng ta phần bí mật?/Thời oanh liệt nay còn đâu? => Bộc lộ sự tiếc nuối những ngày tháng oanh liệt. Mang ý nghĩa phủ định.

+ Sao ta không ngắm sự biệt li theo tâm hồn một chiếc lá nhẹ nhàng rơi? => mang ý nghĩa cầu khiến, bộc lộ cảm xúc, tình cảm

+ Ôi, nếu thế thì còn đâu là quả bóng bay? => mang ý phủ định.

Câu hỏi 2 : Xét những đoạn trích sau và trả lời câu hỏi.

a) – Sao cụ lo xa thế? Cụ còn khoẻ lắm, chưa chết đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn, lúc chết hãy hay! Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại?

– Không, ông giáo ạ! Ăn mãi hết đi thì đến lúc chết lấy gì mà lo liệu?

(Nam Cao, Lão Hạc)

b) Nghe con giục, bà mẹ đến hỏi phú ông. Phú ông ngần ngại. Cả đàn bò giao cho thằng bé không ra người, không ra ngợm ấy, chăn dắt làm sao?

(Sọ Dừa)

c) Dưới gốc tre, tua tủa những mầm măng. Măng trồi lên nhọn hoắt như một mũi gai khổng lồ xuyên qua đất luỹ mà trỗi dậy, bẹ măng bọc kín thân cây non, ủ kĩ như áo mẹ trùm lần trong ngoài cho đứa con non nớt. Ai dám bảo thảo mộc tự nhiên không có tình mẫu tử?

(Ngô Văn Phú, Lũy làng)

d) Vua sai lính điệu em bé vào, phán hỏi:

– Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?

(Em bé thông minh)

Câu hỏi:

– Trong những đoạn văn trên, câu nào là câu nghi vấn? Đặc điểm hình thức nào cho biết đó là câu nghi vấn?

– Những câu nghi vấn đó được dùng để làm gì?

– Trong những câu nghi vấn đó, câu nào có thể thay thế được bằng một câu không phải là câu nghi vấn mà có nghĩa tương đương? Hãy viết những câu có ý nghĩa tương đương đó.

Trả lời:

  • Các câu nghi vấn trong đoạn văn trên là:

+ Sao cụ lo xa thế? Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại? Ăn mãi hết đi thì đến lúc chết lấy gì mà lo liệu?

+ Cả đàn bò giao cho thằng bé không ra người, không ra ngợm ấy, chăn dắt làm sao?

+ Ai dám bảo thảo mộc tự nhiên không có tình mẫu tử?

+ Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?

  •  Đặc điểm hình thức để nhận biết đó là câu nghi vấn:

+ Các từ nghi vấn đều được in đậm và có dấu chấm hỏi khi kết thúc mỗi câu.

  • Trong những câu nghi vấn đó, câu nào có thể thay thế được bằng một câu không phải là câu nghi vấn mà có nghĩa tương đương? Hãy viết những câu có ý nghĩa tương đương đó.

+ Những câu nghi vấn dùng để: diễn đạt ý phủ định thể hiện sự buồn bã, lo lắng về tương lai của Lão Hạc (câu a); thể hiện sự băn khoăn, không tin tưởng khả năng của Sọ Dừa (câu b); mang ý nghĩa khẳng định tình mẫu tử của măng tre (câu c) và dùng để hỏi (câu d)

– Trong các câu trên, câu ở các đoạn a,b,c có thể được thay thế bằng những câu khác tương đương nhưng không phải nghi vấn. Cụ thể:

+ (a): Cụ không phải lo xa quá thế; Không nên nhịn đói mà để tiền lại; Ăn hết thì đến lúc chết không có tiền để mà lo liệu.

+ (b): Không biết chắc là thằng bé có thể chăn dắt được đàn bò không.

+ (c): Thảo mộc tự nhiên có tình mẫu tử.

Câu hỏi 3 : Đặt hai câu nghi vấn không dùng để hỏi, mà để:

– Yêu cầu một người bạn kể lại nội dung của một bộ phim vừa được trình chiếu.

– Bộc lộ tình cảm, cảm xúc trước số phận của một nhân vật văn học

Trả lời:

– “Cậu hãy kể lại cho mình nghe về nội dung bộ phim hôm qua?”

– Đời Lão Hạc sao lại đáng thương vậy?

Câu hỏi 4: Trong giao tiếp, nhiều khi những câu nghi vấn như “Anh ăn cơm chưa?”, “Cậu đọc sách đấy à?”, “Em đi đâu đấy?” không nhằm để hỏi. Vậy trong những trường hợp đó, câu nghi vấn dùng để làm gì? Mối quan hệ giữa người nói và người nghe ở đây như thế nào?

Trả lời:

Trong giao tiếp, nhiều khi những câu nghi vấn như: “Anh ăn cơm chưa?”, “Cậu đọc sách đấy à?”, “Em đi đâu đấy” không nhằm để hỏi mà dùng để chào hỏi. Như vậy, mối quan hệ giữa người nói và người nghe sẽ gần gũi, thân thiện hơn.