Soạn Nghị luận trong văn bản tự sự trang 137-139, sách giáo khoa Ngữ Văn 9 tập 1

I – TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ

Câu 1 (Soạn Nghị luận trong văn bản tự sự): Đọc các đoạn trích sau

“Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận”.

(Nam Cao, Lão Hạc)

“Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai nhường cho ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Khen cho: “Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.
Tha ra, thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.”

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau

Trả lời:

a) Những câu chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên là:

+ Đoạn trích 1 “Lão Hạc” (Nam Cao):

Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi

– Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi.

–  Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình.

–  Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa

– Mình biết vậy nên mình chỉ buồn nhưng không nỡ giận.

+ Đoạn trích 2: “Thúy Kiều báo ân báo oán” (Nguyễn Du)

Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”

– “Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.”

+ Các câu trong văn bản tự sự thường là câu khẳng định, phủ định, câu có cặp từ hô ứng như: nếu…thì…

+ Các từ dùng để lập luận là: thật vậy, trước hết, sau cùng, nói chung, tóm lại, tuy nhiên…

b) Vai trò và nội dung của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự là: để người đọc, người nghe suy nghĩ về một vấn đề nào đó. Nội dung của yếu tố nghị luận làm cho câu chuyện trong văn bản tự sự thêm phần triết lý, hấp dẫn.

II – LUYỆN TẬP

Câu 1 (Soạn Nghị luận trong văn bản tự sự): Lời văn trong đoạn trích (a), mục I.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?

Trả lời:

+ Lời văn trong đoạn trích a) là lời của ông giáo.

+ Ông giáo đang thuyết phục chính bản thân mình

+ Ông giáo thuyết phục bản thân mình để chính bản thân mình phải công nhận rằng vợ ông giáo không ác, cái tốt của vợ ông giáo đã bị cái đau khổ che lấp mất.

Câu 2 (Soạn Nghị luận trong văn bản tự sự): Ở đoạn trích (b), Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà nàng Kiều phải khen rằng: “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”. Hãy tóm tắt các nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng Kiều.

Trả lời:  Tóm tắt các nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của Kiều:

+ “Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.”

=> Hoạn Thư muốn khẳng định là đàn bà chuyện ghen tuông là thường tình.

+ “Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”

=> Sau đó, Hoạn Thư nói rằng khi Kiều ở Quan Âm Các chép kinh, Hoạn Thư đã đối xử rất tốt.

+ “Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai nhường cho ai.”

=> Tiếp theo, Hoạn Thư cho rằng vì chung chồng với Kiều nên không thể nào nhường cho nhau được.

+ “Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”

=> Cuối cùng, Hoạn Thư nhận hết lỗi lầm đã gây ra nhiều đau khổ cho Kiều và bây giờ chỉ mong Kiều rộng lượng tha thứ.

Chính cách lập luận như trên của Hoạn Thư mà Kiều phải công nhận Hoạn Thư là người khôn ngoan và quyết định tha thứ cho Hoạn Thư.