Soạn Hội thoại (tiếp theo) trang 102-107

I. LƯỢT LỜI TRONG HỘI THOẠI

Đọc lại đoạn miêu tả cuộc trò chuyện giữa nhân vật chú bé Hồng với người cô (đã dẫn ở tr. 92 – 93 về hội thoại). Trả lời các câu hỏi sau đây:

Câu 1. Trong cuộc thoại đó, mỗi nhân vật nói bao nhiêu lượt?

Trả lời:

Trong cuộc hội thoại số lượt lời của chú bé Hồng là 2 lần và người cô là 5 lần.

Câu 2. Bao nhiêu lần lẽ ra Hồng được nói nhưng Hồng không nói? Sự im lặng thể hiện thái độ của Hồng đối với những lời nói của người cô như thế nào?

Trả lời:

Trong đoạn thoại, chú bé Hồng đáng lẽ được nói thêm hai lần nhưng cậu im lặng không nói. Sự im lặng của chú bé Hồng thể hiện thái độ rất bất bình của cậu đối với người cô khi cậu nhận ra lời nói cay độc của bà. Hồng không đồng ý với những lời nói của bà cô nhưng cũng không muốn cãi lại vì là vai dưới nên cậu chọn im lặng.

Câu 3. Vì sao Hồng không cắt lời người cô khi bà nói những điều Hồng không muốn nghe?

Trả lời:

Hồng không cắt lời cô khi bà nói những điều mà cậu không muốn nghe vì cậu ý thức được vai nói của mình (vai dưới, không được xúc phạm hay thốt ra những lời bất kính với người trên). Ngoài ra nó cũng thể hiện sự lịch sự trong giao tiếp, cũng như im lặng là một cách biểu thị thái độ không đồng tình của cậu bé Hồng với người cô.

II. LUYỆN TẬP

Câu 1: Qua cách miêu tả cuộc thoại giữa các nhân vật cai lệ, người nhà lí trưởng, chị Dậu và anh Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ (Ngữ văn 8, tập một, tr. 28), em thấy tính cách của mỗi nhân vật được thể hiện như thế nào?

Trả lời:

– Cai lệ là nhân vật hống hách, nhẫn tâm, tàn độc luôn ra oai với người khác. Trong hội thoại hắn thường xuyên cướp lời người khác: ” Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp sưu mau.”, ” Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước dám mở mồm ra khất!”

– Người nhà lý trưởng thì nịnh bợ, vào hùa, khúm núm đối với cai lệ nhưng lại lên mặt với chị Dậu: “Anh ta lại sắp phải gió như đêm qua đấy!”,” Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai để ông ấy ra đình kêu với quan cho.”, …

– Anh Dậu là nhân vật hiền lành, luôn sợ sệt, ngại va chạm, tránh xô xát với người khác có lẽ vì thân thể gầy yếu sức khỏe không tốt:” U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình đánh người ta phải tù phải tội.”

– Chị Dậu thương yêu chồng con, đảm đang nhưng khi cần thiết, tính cách của chị trở nên dứt khoát, mạnh mẽ để bảo vệ chồng con:” Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho!”,” Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ.”

Câu 2: Đọc đoạn trích Tắt Đèn của Ngô Tất Tố (Ngữ văn 8 TTập 2 Trang 103-106) và trả lời các câu hỏi:

a) Sự chủ động tham gia cuộc thoại của chị Dậu với cái Tí phát triển ngược chiều nhau như thế nào?

b) Tác giả miêu tả diễn biến cuộc thoại như vậy có hợp với tâm lí nhân vật không? Vì sao?

c) Việc tác giả tô đậm sự hồn nhiên và hiếu thảo của cái Tí qua phần đầu cuộc thoại làm tăng kịch tính của câu chuyện như thế nào?

Trả lời:

a) Sự chủ động tham gia cuộc thoại của chị Dậu và cái Tí phát triển ngược nhau: Lúc đầu, cái Tí nói nhiều, còn chị Dậu chỉ im lặng, về sau, chị Dậu nói nhiều, còn cái Tí ít nói hẳn đi:

+ Cái Tí vồn vã, sốt sắng hỏi chuyện mẹ khi thấy mẹ về, hỏi thăm mẹ về việc bị cai lệ đánh.

+ Chị Dậu lúc đó giữ thái độ im lặng “không nói gì”, chị buồn chán khi phải bán cái Tí cho nhà Nghị Quế.

+ Khi biết được việc mẹ bán mình cho nhà Nghị Quế cái Tí khóc lóc, van xin mẹ cho ở lại với các em.

+ Chị Dậu đau thắt trong lòng như vẫn tìm lời an ủi, vỗ về để cái Tí nghe lời.

b) Miêu tả diễn biến cuộc thoại như vậy là hợp với tâm lí nhân vật. Bởi vì mới đầu cái Tí hồn nhiên, vô tư chưa biết mình sẽ bị bán đi, nó chỉ quan tâm đến mẹ, còn chị Dậu đau lòng vì buộc phải quyết định bán con nên chỉ im lặng. Sau đó, cái Tí biết mình sắp bị bán cho nhà Nghị Quế nên sợ hãi, đau xót nên ít nói hẳn, còn chị Dậu nói nhiều vì phải thuyết phục hai đứa con nghe lời mình nên phải nói để vỗ về, an ủi nhiều hơn.

c) Việc tô đâm sự hồn nhiên và hiếu thảo của cái Tí khiến cho bi kịch của câu chuyện nhà chị Dậu càng tăng thêm gấp bội: chị Dậu thì càng xót xa hơn khi phải bán đi đứa con vừa đảm đang lại vừa ngoan ngoãn. Cái Tí thì mất đi cuộc sống tự do, hồn nhiên của nó, cuộc sống từ đây đầy nỗi bất hạnh, xa gia đình cha mẹ và các em.

Câu 3. Dựa vào những điều đã biết về truyện Bức tranh của em gái tôi (Ngữ văn 6, tập hai, tr. 30) và đoạn trích dưới đây, hãy cho biết sự im lặng của nhân vật “tôi” biểu thị điều gì.

Trong tranh, một chú bé đang ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi bầu trời trong xanh. Mặt chú bé như tỏa ra một thứ ánh sáng rất lạ […]. Mẹ hồi hộp thì thầm vào tai tôi:

– Con có nhận ra con không?

Tôi giật sững người. Chẳng hiểu sao tôi phải bám chặt lấy tay mẹ. Thoạt tiên là sự ngỡ ngàng, rồi đến hãnh diện, sau đó là xấu hổ. Dưới mắt em tôi, tôi hoàn hảo đến thế kia ư? Tôi nhìn như thôi miên vào dòng chữ đề trên bức tranh: “Anh trai tôi”. Vậy mà dưới mắt tôi thì…

– Con đã nhận ra con chưa? – Mẹ vẫn hồi hộp.

Tôi không trả lời mẹ vì tôi muốn khóc quá. Bởi vì nếu nói được với mẹ, tôi sẽ nói rằng: “Không phải con đâu. Đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy.”.

(Tạ Duy Anh, Bức tranh của em gái tôi)

Trả lời:

Sự “im lặng” của nhân vật tôi trong câu chuyện Bức tranh của em gái tôi (sgk Ngữ văn 6, tập hai) biểu thị:

– Sự ngạc nhiên, hãnh diện của nhân vật “tôi” trước bức tranh em gái vẽ mình

– Sự ngỡ ngàng, bất ngờ của nhân vật “tôi” trước cái nhìn đầy yêu thương của người em gái đối với mình. Đây là điều thường ngày nhân vật “tôi” không nhận ra được.

– Sự xấu hổ đến không dám nói thành lời khi nhân vật tôi đã đó kị, đối xử không tốt với em, vậy mà em lại yêu thương mình đến vậy.

Câu 4. Tục ngữ phương Tây có câu: Im lặng là vàng. Nhưng nhà thơ Tố Hữu lại viết:

Khóc là nhục. Rên, hèn. Van, yếu đuối
Và dại khờ là những lũ người câm
Trên đường đi như những bóng âm thầm
Nhận đau khổ mà gởi vào im lặng.

(Liên hiệp lại)

Theo em, mỗi nhận xét trên đúng trong những trường hợp nào?

Trả lời:

Cả hai nhận định trên đều đúng trong từng trường hợp khác nhau. Việc im lặng hay cất tiếng nói thành lời phụ thuộc vào thời điểm, hoàn cảnh của từng người.

– Nếu trong cuộc hội thoại việc nói chỉ đem lại những điều không hay, tranh cãi, tiêu cực, dễ gây bất hòa thì lúc đó nên im lặng để giữ được tình bạn, tình đoàn kết, cần tránh to tiếng, tránh điều qua tiếng lại không cần thiết…

– Nhưng trước sự sai trái, bất công cần nói sự thật, nhưng lại dụt dè, nhút nhát không dám dùng tiếng nói để bảo vệ sự thật mà lại im lặng thì trở thành người hèn nhát như Tố Hữu đã nói.