Soạn Thành ngữ trang 143-144-145, sách giáo khoa Ngữ Văn 7 tập 1

I – THẾ NÀO LÀ THÀNH NGỮ?

Câu 1 (Soạn Thành ngữ trang 143-144-145): Nhận xét về cấu tạo các cụm từ “lên thác xuống ghềnh” trong các câu ca dao sau:

Nước non lận đận một mình,

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.

a, Có thể thay một vài từ trong cụm từ này bằng những từ khác được không? Có thể chêm xen một vài từ khác vào cụm từ được không? Có thể thay đổi vị trí của các từ trong cụm từ được không?

b, Từ nhận xét trên, em rút ra được kết luận gì về đặc điểm cấu tạo của cụm từ lên thác, xuống ghềnh.

Trả lời:

a, Không thể thay một vài từ trong cụm từ “lên thác xuống ghềnh”, cũng không thể chêm xen một vài từ khác vào cụm từ trên. Cấu tạo của cụm từ cố định, có liên kết hoàn chỉnh về mặt từ ngữ và ý nghĩa, do đó cũng không thể thay đổi vị trí của các từ trong cụm từ “lên thác xuống ghềnh”. Bởi bất kỳ sự thay đổi vị trí nào cũng sẽ làm thay đổi về mặt cấu trúc và nội dung của cụm từ.

b, Từ nhận xét về cụm từ trên, kết luận em rút ra đó là: “Lên thác xuống ghềnh” là một thành ngữ đã được cố định về mặt từ ngữ, ngữ nghĩa. Vậy nên các từ ngữ trong một cụm từ thành ngữ không thể thay đổi, thêm bớt hay hoán đổi vị trí.

Câu 2 (Soạn Thành ngữ trang 143-144-145):

a, Cụm từ “lên thác xuống ghềnh” có nghĩa là gì? Tại sao nói “lên thác xuống ghềnh”?

b, “Nhanh như chớp” có nghĩa là gì? Tại sao lại nói “nhanh như chớp”?

Trả lời:

a, Cụm từ “lên thác xuống ghềnh” có nghĩa đen như sau:

  • Thác là nơi nước chảy vượt qua vách đá
  • Ghềnh là nơi có đá lởm chởm, nước chảy xiết.
  • Như vậy, thác và ghềnh đều chỉ nơi có địa hình không bằng phẳng, rất khó khăn cho người qua lại. “Lên thác xuống ghềnh” là hành động di chuyển ngược chiều ở nơi có địa hình khó khăn hiểm trở. Nghĩa bóng của câu thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” muốn nói về cuộc đời những con người gặp nhiều vất vả, gian lao trong cuộc sống.

b, Cụm từ “nhanh như chớp” có nghĩa là rất nhanh, một sự vật sự việc nào đó diễn ra nhanh chóng như tia chớp trên bầu trời.

II – SỬ DỤNG THÀNH NGỮ

Câu 1 (Soạn Thành ngữ trang 143-144-145): Xác định vai trò ngữ pháp của thành ngữ trong các câu sau:

a)

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

(Hồ Xuân Hương)

b) Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang nhà anh, phòng khi tắt lửa tối đèn có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy sang… (Tô Hoài)

Trả lời:

  • Trong câu: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn/ Bảy nổi ba chìm với nước non” thành ngữ “Bảy nổi ba chìm” đóng vai trò là vị ngữ trong câu.
  • Trong câu: “Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang nhà anh, phòng khi tối lửa tắt đèn có đứa nào đến bắt nạt thì em chạy sang…” thành ngữ “tối lửa tắt đèn” làm bổ ngữ cho động từ “phòng” trong câu.

Câu 2 (Soạn Thành ngữ trang 143-144-145): Em hãy phân tích cái hay của việc dùng thành ngữ trong hai câu ở trên.

Trả lời:

Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” và “tối lửa tắt đèn” được dùng trong hai câu ở trên rất ngắn gọn xúc tích, mang tính hình tượng biểu cảm cao. Nếu không sử dụng thành ngữ tác giả sẽ phải diễn giải dài dòng để cho người đọc hiểu làm mất đi tính xúc tích, ngắn gọn trong câu.

III – LUYỆN TẬP

Câu 1 (Soạn Thành ngữ trang 143-144-145): Tìm và giải thích nghĩa của các thành ngữ trong những câu sau đây

Trả lời:

a, “Đến ngày lễ Tiên Vương, các lang mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng tới, chả thiếu thứ gì.”

  • Thành ngữ trong câu trên đó là: “Nem công chả phượng” “sơn hào hải vị” ý nói các đồ ăn sản vật quý hiếm.

b, “Một hôm, có người hàng rượu tên là Lý Thông đi qua đó. Thấy Thạch Sanh gánh về một gánh củi lớn, hắn nghĩ bụng: “Người này khỏe như voi. Nó về ở cùng thì lợi biết bao nhiêu”. Lý Thông lân la gợi chuyện, rồi gạ Thạch Sanh kết nghĩa anh em. Sớm mồ côi cha mẹ, tứ cố vô thân, nay có người săn sóc đến mình, Thạch Sanh cảm động vui vẻ nhận lời”.

  • Thành ngữ “Khỏe như voi” ý nói có sức khỏe hơn người, khỏe mạnh to cao như con voi.
  • Thành ngữ “Tứ cố vô thân” ý nói người không có ai thân thích họ hàng, không có nơi nương tựa

c, “Chốc đà mười mấy năm trời/Còn ra khi đã da mồi tóc sương”

  • Thành ngữ “da mồi tóc sương” ý nói người già đã có tuổi, tóc đã điểm bạc và da đã xuất hiện những vết đồi mồi.

Câu 2 (Soạn Thành ngữ trang 143-144-145): Kể vắt tắt các truyền thuyết và ngụ ngôn tương ứng để thấy rõ lai lịch của các thành ngữ “con rồng cháu Tiên” “ếch ngồi đáy giếng” “thầy bói xem voi”.

Trả lời:

Kể vắt tắt các truyền thuyết và ngụ ngôn

  • “Con rồng cháu Tiên”: Lạc Long Quân vốn là thần rồng dưới biển khi lên bờ giúp dân lành đã gặp và kết duyên với nàng Âu Cơ vốn là thần tiên ở vùng núi cao phương Bắc. Không lâu sau, Âu Cơ có mang và sinh ra một bọc trứng. Từ bọc trứng nở ra 100 người con. Vì lạc Long Quân sống không thể thiếu nước nên đã chia tay nhau, 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên rừng, 50 người con theo cha Lạc Long Quân xuống biển. Người con trưởng của Âu Cơ lên làm vua đặt tên nước là Văn Lang.
  • “Ếch ngồi đáy giếng”: Một con ếch sống trong một chiếc giếng nọ. Nó chỉ nhìn thấy bầu trời bằng đúng chiếc miệng giếng và nghĩ rằng bầu trời thật bé nhỏ. Cho nên nó vô cùng huênh hoang hống hách với các con vật xung quanh và cho rằng mình là chúa tể của muôn loài. Một hôm trời mưa to, nước tràn vào giếng làm ếch nổi khỏi mặt giếng, ếch ngỡ ngàng đưa mắt lên nhìn bầu trời rồi bị con trâu đi qua dẫm bẹp.
  • “Thầy bói xem voi”: 5 ông thầy bói mù ế ẩm không ai qua xem nên rủ nhau đi xem voi. Mỗi người chỉ sờ một bộ phận của con voi, rồi phán hình thù con voi y hệt với bộ phận mà họ sờ được. Vì mỗi người sờ một bộ phận khác nhau nên xảy ra tranh cãi, đánh nhau chảy máu đầu.

Câu 3 (Soạn Thành ngữ trang 143-144-145): Điền thêm yếu tố để thành ngữ được trọn vẹn

Trả lời:

– Lời ăn tiếng nói

– Một nắng hai sương

– Ngày lành tháng tốt

– No cơm ấm cật

– Bách chiến bách thắng

– Sinh cơ lập nghiệp

Câu 4 (Soạn Thành ngữ trang 143-144-145): Hãy sưu tầm thêm ít nhất mười thành ngữ chưa được giới thiệu trong sách giáo khoa và giải nghĩa các thành ngữ ấy.

Trả lời:

  1. “Đầu voi đuôi chuột”: Ngụ ý việc làm đầu tiên có vẻ to lớn nhưng cuối cùng bỏ dở dang không mang lại kết quả gì.
  2. “Đem con bỏ chợ”: Ý chê trách kẻ dẫn người ta đến một bước khó khăn rồi bỏ mặc người ta.
  3. “Con dao hai lưỡi”: ý nói một việc nào đó có mặt tốt nhưng cũng có mặt không tốt
  4. “Con Hồng, cháu Lạc”: ý nói sự tự hào dân tộc có lịch sử lâu dài.
  5. “Chuột sa chĩnh gạo”: Giễu cợt người nghèo được sống trong hoàn cảnh đầy đủ ví dụ như lấy được vợ là con nhà giàu.
  6. “Cao lương mỹ vị”: Ý nói các món ăn rất ngon, cao cấp
  7. “Lặng ngắt như tờ”: Ý nói im lặng một cách tuyệt đối
  8. “Lấy công chuộc tội”: Ý nói người cố gắng lập công để chuộc lại những lỗi lầm của mình.
  9. “Ngựa non háu đá”: Chê những người ít tuổi mà hay chống đối người khác.
  10. “Ngủ gà ngủ gật”: Nói người ngủ lơ mơ thỉnh thoảng lại gục đầu.