Mở bài

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm

Tác phẩm “Truyện người con gái Nam Xương” nằm trong tập “Truyền kì mạn lục”, được Nguyễn Dữ viết theo thể loại truyền kì. Phân tích vẻ đẹp và số phận của vũ nương có thể thấy, thông qua tác phẩm, ông muốn thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến nhiều thiệt thòi nhưng luôn trong mình những phẩm chất tốt đẹp.

Về tác giả Nguyễn Dữ, ông quê quán ở Hải Dương và là học trò của trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông sống giữa thời loạn lạc giai đoạn thế kỷ XVI. Là một học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông học rộng, tài cao, tuy nhiên sớm tránh vòng danh lợi, trở về quê ẩn dật sau chỉ một năm làm quan.

phan-tich-ve-dep-va-so-phan-cua-vu-nuong

Thân bài

Luận điểm 1: Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương

Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm của Nguyễn Dữ có tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Theo miêu tả của tác giả, nàng “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp lý tưởng, là người con gái xứng đáng được sống một cuộc đời tốt đẹp, có được hạnh phúc gia đình viên mãn. Trong truyện, Trương Sinh con nhà hào phú xin mẹ cưới nàng về làm vợ vì mến cái dung hạnh ở nàng.

Vũ Nương rất hiểu lí lẽ và tinh tế, biết chồng có tính hay ghen nên luôn “giữ khuôn phép” và “không để lúc nào vợ chồng phải bất hòa”. Không chỉ luôn vun đắp nghĩa phu thê, nàng còn rất chu toàn với đạo làm con dâu. Nhưng Trương Sinh thì khác. Chàng con nhà giàu nhưng lại ít học, đặc biệt rất đa nghi, độc đoán, với vợ lại hết sức phòng ngừa. Ngoài ra, cho mình là người có gia thế hơn người, Trương Sinh không tôn trọng mà tỏ ra xem thường vợ. Dù Vũ Nương có chu toàn, hết mực vun vén thế nào, nhưng với tính cách của Trương Sinh, hạnh phúc ra đình luôn tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ. Và thực vậy, phân tích vẻ đẹp và số phận của vũ nương ta thấy, điều này như dự báo về bi kịch mà Vũ Nương phải gánh chịu bởi tính cách của Trương Sinh.

Vũ Nương trong văn của Nguyễn Dữ hiện lên là người con luôn vẹn toàn hiếu nghĩa, người vợ thủy chung, một lòng hướng về chồng và là người mẹ yêu thương, tận tụy vì con.

Phẩm chất tốt đẹp, tấm lòng trung trinh của nàng được tác giả dành những lời lẽ đẹp đẽ ngợi ca. Đó là nàng luôn sống trọn đạo vợ chồng, hết mực yêu thương, chăm sóc chồng. Trong gia đình, nàng lo mọi bề chu toàn, tinh tế.

Một ngày kia, chiến tranh xảy ra, Trương Sinh lên đường chiến đấu, tình cảm vợ chồng, gia đình phải chia cắt. Dành cho chồng tình yêu thương chân thành, nàng rót chén rượu tiễn đưa chồng chỉ cầu chồng được bình an mà chẳng màng vinh hiển. Lúc tiễn đưa chồng, nàng nói: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xỉn ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Phân tích vẻ đẹp và số phận của vũ nương ta biết, nàng luôn khao khát được sống bình yên, hạnh phúc bên chồng con.

phan-tic-ve-dep-va-so-phan-cua-vu-nuong1

Thương chồng, nàng chia sẻ với những vất vả, gian lao mà chồng phải chịu đựng và thấu hiểu cho tấm lòng của người mẹ già phải xa con. Yêu thương chồng, nàng ở nhà luôn chu toàn mọi việc, một lòng giữ gìn tiết hạnh. Mong ước gia đình sum họp, nên nàng ngày đêm mong ngóng tin chồng. Sự vẹn toàn, son sắt của Vũ Nương cho thấy, nàng đặt nghĩa vợ chồng, gia đình làm giá trị sống lớn lao duy nhất của đời mình.

Trương Sinh đi lính, nàng ở nhà chăm sóc mẹ già, làm một người con dâu hiếu thảo, trọn đạo làm dâu và thay chồng gánh vác mọi việc lớn nhỏ trong nhà. Với mẹ chồng, nàng bao giờ cũng dịu dàng, cân cần. Biết mẹ buồn vì xa con trai, nàng luôn “lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Khi bà đau yếu, nàng hết lo thuốc thang chưa bệnh đến cầu khấn thần phật. Mẹ chồng mất, nàng thương xót buồn bã và trọn đạo như đối với cha mẹ đẻ mà tận tâm lo ma chay tế lễ. Phẩm hạnh của nàng được mẹ chồng yêu thương, ghi nhận, như bà từng nói với Vũ Nương lúc còn sống: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giồng dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, trời xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

Vũ Nương còn là người mẹ chu đáo, yêu thương, tận tụy nuôi dưỡng con nhỏ. Vì biết con buồn khi không có cha bên cạnh, nàng đã chỉ lên bòng mình trên vách rồi bảo với con rằng, đó là cha. Nhưng đâu ngờ được rằng, cái bóng của chính mình lại dẫn đến bi kịch đau đớn của đời nàng.

Phân tích vẻ đẹp và số phận của vũ nương ta thấy, Vũ Nương son sắt là vậy, hiếu thuận, thương con là vậy, nhưng nàng cũng là người luôn đề cao lòng tự trọng. Khi bị nghi oan, bị đẩy đến đường cùng, khi đã mất đi yêu thương, gia đình sau bao nhiêu cố gắng, nàng chấp nhận số phận. Để rửa sạch tiếng oan nhơ nhuốc, nàng đã trẫm mình dưới sông Hoàng Giang sâu thẳm.

Luận điểm 2: Phân tích số phận bi kịch của Vũ Nương

Chờ đợi chồng bao năm dài, vất vả thay chồng gánh vác vẹn toàn mọi việc, nàng vỡ òa vì hạnh phúc khi Trương Sinh bình an trở về. Cuộc đoàn viên ấy khiến nàng nghẹn ngào, mừng mừng tủi tủi. Nhưng hạnh phúc chớp nhoáng, tai họa không đâu ập đến. Trương Sinh có tính đa nghi, đề phòng quá mức và tâm trạng buồn bã khi mẹ đã mất, nên chỉ vì một lời nói của đứa con thơ ngây rằng có “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”; chàng ta đã ngay lập kết luận “vợ hư hỏng, không giữ trọn đạo nghĩa vợ chồng. Nghi ngờ làm mờ mắt, Trương Sinh không tin bất cứ ai bênh vực Vũ Nương và hoàn toàn không cho nàng một cơ hội để chứng tỏ sự trong sạch của mình.

Như tiếng sét giữa trời quang, Vũ Nương không hiểu chuyện gì xảy ra, nàng chỉ biết hết lời phân trần mong chồng hiểu lòng mình luôn son sắt, trung trinh. Giữa lúc bị ngờ, nàng chẳng biết phải làm ngoài nói với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một Tô son điểm phân đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như chàng nói”. Nàng cố gắng níu kéo, hàn gắn hạnh phúc gia đình, cầu xin chồng đừng nghi oan. Nhưng, tính gia trưởng, độc đoán của Trương Sinh không hề lung lay mà luôn “mắng nhiếc và đánh đuổi” nàng. Vậy là bao năm vò võ chờ chồng, toàn vẹn lo cho gia đình, chăm lo cho mẹ chồng, nuôi dưỡng con nhỏ bỗng chốc tan tành chỉ vì tính đa nghi, thói gia trưởng của Trương Sinh. Những lời nàng nói “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió” thể hiện nỗi đau, nỗi tuyệt vọng cùng cực khi không thể hàn gắn được hạnh phúc gia đình.

Là một người phụ nữ đức hạnh, đời nàng chỉ ước mong được sống bình yên bên chồng con. Và giờ đây, nàng chỉ ước được một lần, một lần thôi được trở về cuộc sống hạnh phúc ấm êm ngày xưa. Nàng trẫm mình xuống dòng Hoàng Giang, ở Thủy Cung nàng gặp được Phan Lang và có cơ hội trở về và giải oan. Nhưng nàng khóc mà nói rằng “Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nôi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”. Dù đã chết đi, nàng vẫn nặng lòng hướng về quê nhà, chồng con, nàng nhờ Phan Lang “nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở”. Nhưng có lẽ bởi đã hết duyên trần, bởi đã chịu nhiều tủi nhục đau đớn, nên “nàng chỉ trở về trong thoáng chốc để rồi ra đi mãi mãi”.

Phân tích vẻ đẹp và số phận của vũ nương ta cảm thương sâu sắc khi thấy hình ảnh người thiếu phụ Nam Xương hiện lên lần cuối cùng trong truyện. Nhưng lúc này, nàng trở về với vẻ lồng lẫy, rực rỡ, uy nghi. Chấp nhận chấm dứt số phận mình, nàng ngậm ngùi nói lời tạ từ: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Vì nàng đã quyết đi nên dù chàng có gọi ra sao, nàng cũng cũng chỉ hiện lên một lần giữa lòng sông rồi “bóng nàng loang loảng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.

Vũ Nương không lựa chọn trở lại trần gian bởi dù nàng được giải oan, lấy lại được danh dự, phẩm hạnh nhưng tình xưa đã là quá khứ. Nàng vẫn còn đó nỗi đau bị nghi oan, tình cảm chân thành, một lòng son sắt từng bị chà đạp thì cuộc sống không thể hạnh phúc nếu trở lại. Duyên trần thế giữa người con gái Nam Xương và chàng Trương Sinh vì thế đứt đoạn từ đây.

Những chi tiết kì ảo, truyền kì của truyện dường như càng làm tăng thêm tính bị kịch, bi đát của câu chuyện, của số phận con người. Phân tích vẻ đẹp và số phận của vũ nương một lần nữa ta phải khẳng định Nguyễn Dữ dành niềm cảm thương sâu sắc dành cho số phận nàng thiếu phụ nói riêng và người phụ Việt Nam trong chế độ phong kiến nói chung. Đồng thời, những chi tiết mang tính truyền kì ở cuối tác phẩm tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới so với truyện cổ tích chỉ thuần về nội dung.

Với hình tượng nàng Vũ Nương với bao phẩm chất tốt đẹp nhưng số phận bi kịch, Nguyễn Dữ góp thêm tiếng lòng xót xa trước thân phận bé nhỏ, không danh phận, không được tôn trọng của người phụ nữ xưa mà ca dao xưa từng nhắc: “Thân em như dải lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”.

Trong địa hạt văn chương, số phận người phụ nữ cũng được nhiều nhà thơ, nhà văn thể hiện niềm cảm thương, chia sẻ. Điển hình như Hồ Xuân Hương viết trong bài “Bánh trôi nước” hay số phận hồng nhan bạc phận của nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du.

Kết luận

Phân tích vẻ đẹp và số phận của vũ nương có thể kết luận, bằng sự sáng tạo trong cách kể chuyện, xây dựng yếu tố kì ảo và tinh tế trong cách khai thác vốn văn học dân gian; Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công nhân vật Vũ Nương qua đó thể hiện niềm cảm thương cho số phận bất hạnh của người phụ nữ phải sống trong xã hội phong kiến hà khắc, nhiều nghi kị. Đồng thời, bằng câu chuyện của nàng Vũ Nương, tác giả khẳng định và đề cảm vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, thay họ nói lên ước mơ về cuộc sống bình dị, tốt đẹp và công bằng.