Phân tích tự tình lớp 11

Mở bài

Hồ Xuân Hương được đánh giá là nữ thi sĩ nổi bật, cá tính bậc nhất trong thi ca trung đại. Các bài thơ của bà luôn mang tiếng nói tự tin của người phụ nữ trong xã hội cũ, nâng đỡ và yêu thương số phận của mình. Phân tích Tự tình lớp 11 sẽ giúp ta hiểu được phong cách văn chương và tình cảm sâu sắc của nhà thơ.

Thân bài

Khái quát tác giả, tác phẩm

Hồ Xuân Hương, dù chưa rõ năm sinh, năm mất nhưng những giai thoại về bà thì nhiều vô kể. Cuộc đời bà là chuỗi ngày lận đận với những éo le, ngang trái. Tuy nhiên, trái ngược với cuộc đời nhiều biến động, con người bà lại vô cùng phóng túng, tài hoa, có cá tính mạnh mẽ. Chính vì vậy, tính cách này của bà đã được đưa vào thơ ca một cách rất tài tình. Bà là nhà thơ nữ chuyên viết về phụ nữ với nét bút trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ, hình tượng, là một “hiện tượng” hiếm có trong văn học Việt Nam.

Tranh vẽ phỏng tác nhà thơ Hồ Xuân Hương

Tự tình (bài II) nằm trong chùm thơ Tự tình gồm ba bài của Hồ Xuân Hương. Bài thơ là tiếng nói của bản thân đối với thân phận éo le, khổ cực của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Phân tích bài thơ

  • Luận điểm 1: Nỗi niềm buồn tủi, chán chường

Trước hết, Hồ Xuân Hương đã khắc họa lên nỗi buồn tủi, chán chường của người phụ nữ trong cảnh chung chồng:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Thời gian trong thơ là “đêm khuya”, là khoảng thời gian mà con người dễ rung cảm và tự ngẫm nhất. Cùng với tiếng “trống canh dồn” gấp gáp, liên hồi đã thể hiện bước đi gấp gáp, vội vã của thời gian. Trước không gian ấy, con người cũng chất chứa những nỗi niềm, bất an khôn tả. Tác giả đã khéo léo lấy động tả tĩnh với từ láy “văng vẳng”. Không gian hiện ra rộng lớn nhưng vắng vẻ, yên tĩnh. Chính vì thế mà con người cũng trở nên nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn. 

Tiếp theo đó, nhà thơ miêu tả trực tiếp nỗi buồn tủi bằng cách sử dụng từ “trơ” gây ấn tượng mạnh. Nó diễn tả được nỗi đau, hoàn cảnh “trơ trọi”, tủi hờn của người phụ nữ. Đồng thời cũng thể hiện bản lĩnh thách thức, đối đầu với những bất công ngang trái của chính bản thân mình. Cụm từ “cái” hồng nhan là sự kết hợp từ lạ, lần đầu tiên có trong thi ca. Nó đã thể hiện sự rẻ rúng của thân phận người phụ nữ, đối nghịch “với nước non”. Đó là bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ, không có vị thế, không có tiếng nói.

Người phụ nữ xưa tài sắc nhưng duyên phận lại hẩm hiu
  • Luận điểm 2: Tình cảnh lẻ loi và nỗi niềm buồn tủi

Sau đó, Hồ Xuân Hương đã miêu tả hình ảnh người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng với bao xót xa:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, 

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”

Hồ Xuân Hương đã sử dụng hình ảnh “Chén rượu hương đưa” để ám chỉ tình cảnh lẻ loi của mình, phải mượn rượu để giải sầu. Để rồi bản thân cứ “say lại tỉnh”. Đó là một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Người có say rồi cũng lại tỉnh, cũng như cuộc tình rồi cũng tàn phai, để cho người ở lại vấn vương không thôi. Cái vòng luẩn quẩn ấy khiến cho nhân duyên, tình yêu cũng trở thành trò đùa chung của số phận.

Sau đó, tác giả miêu tả nỗi chán chường, đau đớn ê chề của bản thân. Hình ảnh “vầng trăng bóng xế” là hình ảnh trăng tàn, âm chỉ tuổi xuân đã trôi qua, tàn phai theo năm tháng. Vầng trăng ấy “khuyết chưa tròn”, là chính mối nhân duyên chưa trọn vẹn. Nhân duyên ấy mãi vẫn chưa tìm được hạnh phúc tròn đầy, viên mãn. Con người đã lâm phải cảnh dở dang, muộn màng. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đối rất tinh tế, giúp tô đậm thêm nỗi sầu đơn lẻ của người gặp phải sự muộn màng, lỡ dở. Lời thơ đã diễn tả niềm mong mỏi của người phụ nữ. Thế nhưng mặc cho có cố sức bao nhiêu, người phụ nữ vẫn không thể thoát khỏi hoàn cảnh thực tại tối tăm, tù túng ấy.

  • Luận điểm 3: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng

Đến những câu thơ tiếp theo, Hồ Xuân Hương diễn tả nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của người phụ nữ:

Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”

Qua cái nhìn của nhà thơ, cảnh thiên nhiên như mang những nỗi niềm phẫn uất, giày xéo. Hình ảnh “rêu” ám chỉ sự vật yếu ớt, mềm yếu, nhỏ nhoi. Những đám rêu ấy không thể nào làm chủ được số phận mà mãi chịu cảnh giày xéo, hắt hủi. Trái ngược với rêu là hình ảnh “đá” im lìm. Thế nhưng những hòn đá ấy giờ đây phải rắn chắc hơn, phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân mây”. Nhà thơ đã sử dụng những động từ mạnh như “xiên”, “đâm” nhằm kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” để thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh của người phụ nữ. Với cách sử dụng nghệ thuật đối, đảo ngữ, tác giả đã cho thấy sự phản kháng mạnh mẽ quyết liệt, dữ dội, không chịu đầu hàng. Đó là sức sống vốn bị đèn nén, áp bức nay đã bắt đầu bật lên vô cùng mạnh mẽ. Qua sự phản kháng của thiên nhiên, Hồ Xuân Hương đã làm bật lên sự phản kháng của con người trước nghịch cảnh éo le, đầy rẫy bất công.

  • Luận điểm 4: Sự trở lại của tâm trạng chán chường, buồn tủi

Sau những nỗi niềm và cả sự phản kháng mạnh mẽ, nhà thơ lại quay trở về nỗi buồn tủi, chán chường của mình:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”

Tác giả đã sử dụng động từ “ngán” thể hiện sự ngán ngẩm, chán ngán của con người. Cụm từ “xuân đi xuân lại lại” mang nhiều tầng nghĩa sâu sắc. Từ “xuân” ở đây mang hai ý nghĩa khác nhau. Đó vừa là mùa xuân, đồng thời cũng là tuổi xuân của người phụ nữ. Mùa xuân đi rồi trở lại theo nhịp tuần hoàn của tạo hóa còn tuổi xuân của con người cứ qua đi mà không bao giờ trở lại. Câu thơ diễn tả sự chua chát, chán ngán của tác giả về chính cuộc đời và số phận của mình.

Bên cạnh đó, Hồ Xuân Hương còn khắc họa một tình yêu không trọn vẹn qua hình ảnh “mảnh tình”. Đã là “mảnh”, mà mảnh tình đó lại còn phải “san sẻ”, khiến cho nỗi chua xót, ngậm ngùi càng tăng lên gấp bội. Cùng với đó, tác giả đã sử dụng cụm từ “tí con con”. “Tí” và “con con” đều là hai tính từ chỉ sự nhỏ bé, nhỏ nhoi. Đặt hai tính từ này cạnh nhau lại càng làm tăng sự nhỏ bé, hèn mọn của mối tình duyên không trọn vẹn. Mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn ấy, giờ đây lại còn phải san sẻ ra để cuối cùng trở thành “tí con con”, nhỏ bé vô cùng. Câu thơ đã khắc họa được số phận ngang trái, éo le của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ phải chịu thân phận làm lẽ, phải san sẻ tình yêu đã nhỏ bé nay lại càng mong manh.

Những lời thơ, cũng chính như nhan đề bài thơ là tâm tình, thủ thỉ của Hồ Xuân Hương về chính bản thân mình. Đồng thời đó cũng là lời tâm sự, xót thương cho thân phận người phụ nữ thời phong kiến. Bài thơ do đó càng mang sức nặng thời cuộc, cho thấy được cái nhìn sâu sắc của tác giả với cuộc đời, xã hội.

Kết bài phân tích tự tình lớp 11

Với lời thơ cá tính, cách sử dụng từ độc đáo, Hồ Xuân Hương đã nói lên được tiếng nói của người phụ nữ xưa. Họ phải sống một cuộc sống không đúng với mong muốn và ước vọng của mình, phải san sẻ tình yêu với những người khác. Bài thơ cũng thể hiện khát khao hạnh phúc trọn vẹn của người phụ nữ ở tương lai phía trước.