Văn mẫu

Phân tích bài thuế máu

Mở bài

Hồ Chí Minh không chỉ là người cha già vĩ đại của dân tộc mà còn là người cộng sản tiên phong, và là nhà danh nhân văn hóa thế giới, nhà văn, nhà báo với nhiều tác phẩm văn học quý giá để lại cho đời. Trong đó, tác phẩm Thuế máu được viết năm 1925 bằng tiếng Pháp ở Pháp và đến tận 1946 mới xuất bản tại Việt Nam. Đây là bản án đanh thép tố cáo tội ác giả dối của chính quyền thực dân Pháp trong việc biến thuộc địa thành vật hi sinh cho lợi ích của chúng. Đồng thời tố cáo chiến tranh phi nghĩa với mức sưu cao, thuế nặng, người dân sống khổ tận cùng, sức cùng lực kiệt vì bị bóc lột, chà đạp.

Thân bài

Phân tích bài thuế máu – Thuế máu gồm 12 chương tất cả và có phần phụ lục tựa đề: “Gửi thanh niên Việt Nam”. Trong đó nội dung là tố cáo, kết án tội ác tài trời của thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… đồng thời phản ánh tình cảnh vô cùng khốn cùng của nhân dân các nước thuộc địa trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Qua đó, vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc. Đây chính là bản án chế độ thực dân Pháp, giáng một đòn mạnh tấn công vào chủ nghĩa thực dân ngay tại sào huyệt và chỉ ra con đường cách mạng tươi sáng đưa các dân tộc thuộc địa vùng lên “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.

  • Luận điểm 1: Chiến tranh và người bản xứ

Mở đầu của Thuế máu là những lời chê bai, giè bữu của thực dân pháp đối với dân thuộc địa. Trước năm 1941 khi còn chiến tranh, thực dân Pháp coi dân thuộc địa chỉ là “những tên da đen bẩn thỉu, những tên An-nam-mit bẩn thỉu, giỏi lắm chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta”. Chúng coi thường dân thuộc địa, coi dân thuộc địa chỉ là cỏ rác.

Tác giả sử dụng  ngôn ngữ trào phúng, miệt thị để thấy được tội ác của thực dân Pháp. Nhất là khi sau chiến tranh xảy ra và dân thuộc địa phải chịu dưới sự cai quản của chúng thì giọng điệu của chúng thay đổi ngay lập tức. Lúc này, chúng gọi dân thuộc địa là: “những đứa con yêu, những người bạn hiền của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, qoàn quyền bé nữa”

Có thể nói, thực dân Pháp rất dã tâm và quá khôn khéo. Tại sao chúng lại lại thay đổi nhanh đến như vậy? bởi vì sau chiến tranh, chúng muốn dùng dân thuộc đại để giúp chúng bành trướng và chết thay cho chúng. Sự dã tâm của chúng quá lớn và lợi dụng sự kém hiểu biết của dân thuộc địa.

Bởi vì thế mà dân thuộc địa phải chết trên chiến trường tàn khốc, phải xa gia đình, xa quê hương “ họ đã phải đột ngột lìa xa vợ con, rời bỏ mảnh ruộc hoặc đàn cừu của họ, vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường Châu Âu. … một số khác bỏ mạng bởi miền hoang vu mơ mộng vùng Ban-căng, lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấp vua Thổ… một số khác thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát bên bờ sông Mắc-nơ, hoặc trong bãi lầy miền Săm-pa-nhơ…” Chúng đã lợi sức người, lợi dụng sự kém hiểu biết của dân thuộc địa để chính dân thuộc địa tự tàn sát, tự hại nhau, tự tìm đến cái chết mà không oán thù chúng, vẫn ca ngợi chúng, vẫn mụ mị bởi chúng.

Còn ở hậu phương, thì thực dân pháp lại bóc lột tàn khốc, vắt kiệt sức lao động các xưởng thuôc súng, khiến cho công nhân bị nhiễm khí độc đến nỗi chết “ khạc ra từng miếng phổ, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy”

Chúng bóc lột dân thuộc địa từ người đi lính đến người hậu phương, ai rồi cũng sẽ phải chết khổ, chết sở, sống dở dưới tay chúng. Một thủ đoạn tàn nhẫn, khốn nạn mà nếu không vạch mặt chúng thì dân thuộc địa còn khổ với chúng, chỉ biết ngửa mặt lên trời mà kêu thôi. Qua đây cũng thấy số pận quá bi thảm, bế tắc của những người dân thuộc địa, trở thành tay sai, nô lệ cho thực dân pháp.

  • Luận điểm 2: Ché độ lính tình nguyện

Phân tích bài thuế máu – Một thủ đoạn tàn khốc, thâm sâu, bí hiểm, đầy mánh khóe khác của thực dân pháp chính là chúng dùng mọi lí lẽ, mọi cách để có thể ép người dân Đông Dương đi lính một cách tình nguyện và sau đó thì vơ vét của cải của họ. Có thể, dân thuộc địa Đông Dương đã khổ nay còn khổ hơn dưới sự thống trị của thực dân Pháp : “Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khóa, sưu sai, tạp dịch, bằng cưỡng bức phải mua rượu, thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 – 1916 tới nay lại còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa”.

Thủ đoạn của thực dân Pháp chính là mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực ép người dân đi lính. Còn nếu như không đi lính thì phải xì tiền ra cho chúng. Đây là thủ đoạn vô cùng khốn nạn và mất nhân tính. Thậm chí nếu như không đi, chúng còn trói, xích, đánh đạp như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu họ chống đối “Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp”… “ và bị gọi là Vật liệu biết nói Châu Á… sau người ta gọi là  chế độ lính tình nguyện (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn”  và “chúng tóm những người khỏe mạnh, nghèo khổ và những người chỉ chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó chúng đòi tới con cái nhà giàu… đi lính tình nguyện hoặc xì tiền ra”

Đau đớn hơn, nếu không muốn đi lính phải tự làm cho mình mắc bệnh thật nặng như xát vào mắt nhiều thứ chất độc, từ vôi sống đến mủ bệnh lậu… như vậy may ra mới thoát được cảnh đi lính.

Thực dân pháp Vô nhân đạo không từ một thủ đoạn tàn ác nào và coi mạng người như cỏ rác. Khốn nạn hơn nữa khi đã ép được người dân đi lính chúng còn giở giọng điệu xả trá, đáng khinh khi: “các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khổ đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”

Chúng nghĩ rằng, chúng có thể lừa được dân thuộc địa mãi mãi? Chúng nghĩ rằng giọng điệu xảo trá của chúng không bị vạch trần? Vậy thì chúng đã lầm rồi. Dân thuộc địa tuy khổ, tuy nghèo, cùng cực nhưng họ cũng có ý thức về sự sống, về tự do, vì vậy mà họ tìm mọi cách để làm cho mình nhiễm những căn bệnh nặng không thể đi lính được, họ tìm mọi cách để trốn thoát của vòng vây thực dân. Đó chính là ý thức đầu tiên, điểm sáng cho chiến tranh cách mạng và vùng lên sau này. Dù cho, bước đầu họ chống đối nhưng họ vẫn bị chúng bóc lột, vơ vết không từ thủ đoạn.

Qua một vài hành động của họ về sự phản kháng cho thấy họ không hề tình nguyện đi lính như lời toàn quyền Đông Dương công bố với toàn thế giới.

  • Luận điểm 3: Kết quả của sự hi sinh

Ở phần cuối chúng ta lại được chứng kiến những lời đối đáp đanh thép của tác giả với thực dân. Nếu thật người An nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đàn lên nòng sẵn? … Những lời cáo buộc này cho thấy tất cả chỉ là trò giả dối, bịp bợm của bè lũ thực dân Pháp mà thôi.

Và sự thật của sự hi sinh đó là khi người lính “tình nguyện” ra chiến trường, đã hi sinh, đã chết đã phục vụ cho chúng và hoàn thành nhiệm vụ chúng sẵn sàng nói chúng tôi không cần anh nữa, cút đi “ khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền bỗng dưng im bặt, và cả người Nê gơ rô và người An nam mit mặc nhiên trở lại giống người bẩn thỉu”.

Và khi cách mà chúng ghi nhớ công ơn của những người lính “tình nguyện” đó là vơ vét của cải của họ, đánh đập họ vô cớ, cho họ nằm ăn như lợn, xếp họ như lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường, không ánh sáng, thiếu không khí và chốt hạ: “các anh đã bảo vệ tổ quốc, thế là tốt Bây giờ chúng tôi không cần các anh nữa, cút đi”

Lời tố cáo đanh thép, chứng cứ chặt chẽ, lập luận sắc bén của tác giả đã tối cáo tội ác dã man của thực dân pháp. Chúng đã lợi dụng con người, coi dân thuộc địa như súc vật vắt kiệt sực, lợi dụng họ đến tận cùng vậy mà còn đày đọa họ, sỉ nhục, coi thường họ như cỏ rác. Không còn lời nào để nói về tội ác của chúng, tội ác mà trời không tha đất không dung, bỉ ổi, gian xảo có phanh thây trăm mảnh cũng không thể hết.

Với những tội ác đã liệt kê ở trên, tác giả một lần nữa khẳng định tinh thần khẳng khái, chống giặc mãnh liệt của dân thuộc địa khi chúng tìm mọi cách mua chuộc dân thuộc địa: “Chúng tôi chắc rằng thương binh và quả phụ chiến tranh sẽ đá văng món quà nhơ nhớp ấy và nhổ vào mặt kẻ tặng quà. Chúng tôi cũng tin chắc rằng thế giới văn minh và  người Pháp lương thiện sẽ đứng về phía chúng tôi lên án bọn cá mập thực dân đang không ngần ngại đầu độc cả mọt dân tộc để vơ vét cho đầy túi”.

Kết bài

Văn bản Thuế Máu của Hồ Chí Minh chính là bản án chế độ thực dân Pháp đanh thép, là nhát dao sắc bén đâm thẳng vào tim đen của bọn thực dân, vạch trần tội ác khốn nạn của chúng và nói lên sự đau khổ của người dân thực địa. Qua đây cho thấy chỉ có vùng lên , giải phóng bản thân, giải phóng dân tộc mới có thể thay đổi cuộc sống, mang lại cuộc sống tự do cho dân thuộc địa.

>> Xem thêm: Phân tích bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh hấp dẫn nhất