Mở bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm

Đất nước là đề tài  mang đến nhiều cảm hứng cho người thi nhân, đặc biệt là giai đoạn nền độc lập dân tộc bị đe dọa bởi giặc ngoại xâm. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy được nhận thức sâu sắc của thế hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ chống Mỹ. Nhận thức này chính là điểm tựa để mỗi người suy ngẫm về tình yêu, đất nước, trách nhiệm với đất nước.

Đoạn trích “Đất nước” nằm ở chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” và được xem là phần hay nhất của trường ca này.

phan-tich-bai-tho-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-diem-doan-2-1
phan-tich-bai-tho-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-diem-doan-2-1

Thân bài

Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 theo luận điểm

Luận điểm 1: Thời điểm đất nước ra đời

Đối với hình ảnh đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đình Sử cho rằng đó là “đất nước của nhân dân”. Và ông gọi bài thơ “Đất nước” là bài thơ chính luận, vì bài thơ bàn về đất nước và nhân dân.

Trong đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra những khái niệm về đất nước vừa quen vừa lạ. Nhưng ông không chỉ lí giải đất nước, nhân dân là gì mà còn gửi gắm tình cảm sâu nặng dành cho đất nước, đối với nhân dân. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, việc kết hợp giữa hai phương diện này đã mang đến cho bài thơ chất trữ tình và chất chính luận thấm nhuần cùng nhau. Mỗi khổ thơ nhỏ trong đoạn trích đều hướng đến lí giải, trả lời những câu hỏi về đất nước, mà những câu hỏi đều có liên kết với nhau chặt chẽ, hợp lý.

Bắt đầu với câu hỏi về thời gian, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa độc giả trở về quá khứ, để tìm hiểu về lịch sử của đất nước, về thời điểm mà đất nước ra đời:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên…

Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, trong đoạn thơ này ta thấy xuất hiện nhiều trạng từ chỉ thời gian, “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Và gắn liền với những mốc thời gian này là “miếng trầu bà ăn”. Nghĩa là đất nước đã có từ lâu đời, từ xa xưa, trong phong tục tập quán văn hóa dân gian. Và gần hơn, đất nước có trong tình yêu của mỗi gia đình nhỏ, trong cả từng hạt gạo.

Sau khi lí giải cho các câu hỏi để xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đặt câu hỏi quen thuộc về một thứ gắn liền với đời sống con người, “Đất là gì?” Ta biết đây không phải là một câu hỏi mới mẻ và cũng không phải Nguyễn Khoa Điềm là người đầu tiên đưa ra. Mà trong văn học dân gian, trong các địa hạt lịch sử, địa lý, dân tộc học, “đất” đã được định nghĩa. Như trong văn học từ xưa người ta cũng đã đi tùm câu trả lời cho câu hỏi “đất nước là gì?”. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2, ta càng thấy rõ những nhận định của Nguyễn Khoa Điềm về “đất”:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Qua những câu thơ trên ta thấy, đất nước hiện lên thật giản dị mà cũng độc đáo biết bao. Đất nước được định nghĩa cũng thật trữ tình và lôi cuốn người đọc. Nhưng ở đây, đất nước không chỉ được viết cho những người yêu nhau, mà nhà thơ viết cho tất cả mọi người. Đất nước được Nguyễn Khoa Điềm kiến giải rất dài, rất cụ thể nhưng cũng rất đơn giản, có lý và vô cùng thuyết phục. Những kiến giải này được nhà thơ dựa trên hai trục không gian và thời gian. Đó là “thời gian đằng đẵng” và “không gian mênh mông”. Và giữa không gian bao la, thời gian dài rộng ấy, đất nước hiện ra thật to lớn, hùng vĩ qua hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá ngư ông móng nước biển khơi”.

Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy không gian đất nước hiện lên thật hùng vĩ mà rất trữ tình. Và ở những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa định nghĩa về đất nước từ góc độ những truyền thuyết thời xa xưa:

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở.

Hai câu thơ dựa trên truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, người cha người mẹ của đồng bào ta. Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trăm trứng, nghĩa là đất nước tạo ra tất cả mọi người, là tất cả mọi người, tất cả thế hệ, là tất cả những người đang sống và cả những người đã khuất. Nhưng dù bạn là ai, sinh ra ở đâu thì tất cả chúng ta đều cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước luôn ở trong anh, trong em và trong tất cả chúng ta, trong những người đã khuất, trong những người hôm nay và những thế hệ mai sau. Tất cả tạo nên một đất nước vừa rộng lớn thiêng liêng, vừa gần gũi quen thuộc và bao giờ cũng tròn vẹn nghĩa tình.

phan-tich-bai-tho-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-diem-doan-2

Những câu thơ tiếp theo, giọng thơ của Nguyễn Khoa Điệm vẫn thật khúc chiết nhưng cũng chứa chan bao tình cảm đằm thắm.

Em ơi đất nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời…

Những câu thơ trên không khỏi khiến ta nghĩ về câu thơ của Chế Lan Viên viết về đất nước. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ở những câu trơ trên ta thấy, nếu với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước là máu xương của mình” nên chúng ta phải biết “hóa thân cho dáng hình xứ sở”; thì Chế Lan Viên viết:

Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt

Chất chính luận trong bài thơ thuyết phục người đọc tin, còn chất trữ tình lại khiến người đọc xúc động và nảy nở yêu thương. Và chính sự hòa quyện của chất chính luận và trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm trong cách nói về đất nước đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ. Và những hình ảnh, chi tiết cụ thể trong bài thơ được nâng lên tầm khái quát.

Luận điểm 2: Tư tưởng đất nước nhân dân qua phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2

Trong phần thứ hai của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra một phát hiện độc đáo khi nói về những yếu tố góp thành đất nước.

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ở đây ta thấy, đất nước hiện lên với nhiều hình ảnh cụ thể. Đó là một đất nước bao la, hùng vĩ, một đất nước với nền văn hiền nghìn năm lịch sử. Nhưng đất nước ấy cũng là những điều gần gũi, quen thuộc với tất cả mọi người.  Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 đến đây ta thấy, đất nước không phải của riêng ai, không phải những người anh hùng mới có công làm nên đất nước, mà đất nước còn là một phần của những con người bình thường, những con người vô danh lặng lẽ. Tất cả họ đều góp cho đất nước một dáng hình.

Những người yêu nhau thì góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên”. Và ngay cả những con gà, con cóc cũng góp phần góp cho đất nước vịnh Hạ Long huyền thoại. Còn những người dân bình thường, nào “ông Đốc”, “bà Đen”, “bà Điểm” cũng đều làm nên những địa danh nổi tiếng cho đất nước.

Và từ những phát hiện độc đáo này, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát vê đất nước thật sâu sắc và đầy xúc động:

Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

Nhưng đây không phải là kết thúc bài thơ, cũng không phải kết thúc cho những suy ngẫm, cảm xúc về đất nước. Bởi dường như, đất nước hiện diện ở bất cứ đâu, ở bất kì điều gì ta nói đến, từ những người con trai ra trận đến những người con gái ở nhà nuôi dạy con cái. Mà nhiều người trong số họ đã trở thành anh hùng.

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Tuy nhiên đất nước là tất cả mọi người, đất nước không chỉ được tạo nên bởi những lớp người “đã sống và chết”. Mà ở đây tác giả còn thể hiện lòng biết ơn đối với những người vô danh, những người “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Họ đã sống giản dị và làm việc thầm lặng nhưng lại mang đến ý nghĩa lớn lao. Bởi chính họ đã truyền lại điều quý giá biết bao, từ hạt lúa, ngọn lửa đến tiếng nói cho ta.

Từ những suy ngẫm này, Nguyễn Khoa Điềm đã kết luận rằng: Đất Nước này là đất nước của tất cả mọi người, đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại, đất nước của cả những anh hùng và cả những người vô danh. Tất cả họ dù để lại một dòng tên trong lịch sử, một tượng đài hay một tấm bia lưu danh hay không đều mang lại cho đất nước một cuộc đời bình dị mà ý nghĩa lớn lao, làm nên một đất nước trường tồn và hùng vĩ, rộng lớn cả về thời gian và không gian.

Kết luận khi phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2

Đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã cho ta thấy một đất nước rộng lớn, đa chiều được thể hiện bằng vốn hiểu biết phóng phú của nhà thơ. Đồng thời, phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy tác phẩm này là đúc kết những trải nghiệm của nhà thơ trong khoảng thời gian ông bị tù đày trong nhà tù của quân Mỹ ngụy và thời điểm tham gia phong trào sinh viên ở Huế.

Bằng tất cả lòng chân thành và suy ngẫm sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm tới bạn đọc những cảm nghĩ riêng mà độc đáo, gần gũi về đất nước. Đặc biệt, đây không phải chỉ là cảm nhận của riêng nhà thơ mà còn là tiếng nói đại diện cho cả một thế hệ thanh niên trong kháng chiến chống Mỹ khi nói về đất nước. Về mặt nghệ thuật, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp hài hòa của lối viết chính luận và chất trữ trình trong thơ.