Mục lục

Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II) Trang 115-116 Ngữ văn 11 Tập 2

(Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II)

I – NỘI DUNG

Sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai, phần văn học Việt Nam gồm những tác phẩm văn học hiện đại thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc về các thể loại thơ ca và nghị luận

– Về thơ, chương trình gồm các tác phẩm: Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu), Hầu trời (Tản Đà), Vội vàng (Xuân Diệu), Tràng giang (Huy Cận), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Chiều tối (Hồ Chí Minh), Từ ấy (Tố Hữu); các bài đọc thêm: Lai tân (Hồ Chí Minh), Nhớ đồng (Tố Hữu), Tương tư (Nguyễn Bính), Chiều xuân (Anh Thơ).

Khi ôn tập các tác phẩm này, cần nắm được lí thuyết về thể loại thơ để vận dụng vào việc phân tích các tác phẩm. Cần nắm vững những vấn đề về nội dung và nghệ thuật; nhận ra được nội dung cảm hứng, hình tượng nhân vật trữ tình, phát hiện ra các chi tiết nghệ thuật đặc sắc của mỗi bài thơ.

– Về văn nghị luận, sách giáo khoa có trích tuyển để học các trích đoạn: Về luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh), Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh); bài đọc thêm: Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh).

Khi ôn tập các tác phẩm này, cần hiểu được sự khác nhau giữa văn hình tượng với văn nghị luận. Văn hình tượng là sản phẩm của tư duy nghệ thuật, sáng tạo ra những hình tượng sinh động, đẹp đẽ, trước hết và chủ yếu để chuyển tải tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ. Còn văn nghị luận là sản phẩm của tư duy logic, tác động trước hết đến nhận thức lí trí của người đọc. Sức mạnh của văn nghị luận là ở lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, luận cứ xác đáng, đầy thuyết phục.

Tìm hiểu các tác phẩm nghị luận nói trên qua đoạn trích, cần nắm chắc nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các văn bản, cách triển khai lập luận và ngôn ngữ biểu đạt của mỗi tác giả.

– Phần văn học nước ngoài gồm: bài thơ Tôi yêu em (Pu-skin), truyện ngắn Người trong bao (Sê-khốp), đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền (trích tiểu thuyết Những người khốn khổ – Huy-gô), tác phẩm nghị luận Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ăng-ghen); bài đọc thêm: Bài thơ số 28 (Ta-go)

Khi ôn tập các tác phẩm này, ngoài đặc trưng của một tác phẩm nước ngoài học qua bản dịch, cần nắm được những kiến thức cơ bản về tác giả, về nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm.

II – PHƯƠNG PHÁP

(Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II)

Câu 1: Thơ mới khác với thơ trung đại như thế nào?

Trả lời:

+ Thơ mới khác với thơ trung đại về cả nội dung và hình thức:

+ Về nội dung:

  • Thơ trung đại chủ yếu bày tỏ nỗi lòng, chí khí đối với vua, với nước (Thi dĩ ngôn chí), nặng tính chất giáo huấn.
  • Thơ mới chủ yếu thể hiện “cái tôi” cá nhân trước con người và thế giới: một cái tôi thiết tha, say đắm trước thiên nhiên và con người nhưng có lúc không tránh được nỗi buồn cô đơn, bơ vơ giữa cuộc đời và không gian vô tận.

+ Về hình thức:

  • Thơ trung đại mang tính quy phạm, thể thơ gò bó vào niêm luật, hình ảnh mang nặng tính ước lệ, công thức.
  • Thơ mới thoát khỏi cách diễn đạt theo quy tắc cứng nhắc, thể thơ tự do (số tiếng, số dòng, vần, nhịp…) ngôn ngữ thơ cần với lời nói cá nhân, hình ảnh sinh động gân với đời sống.

Câu 2(Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II): Những nội dung cơ bản và đặc điểm nghệ thuật chủ yếu của các bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà? Làm rõ tính chất giao thời (giữa văn học trung đại và hiện đại) về nghệ thuật của các tác phẩm nói trên

Trả lời:

+ Nội dung cơ bản và đăc điểm nghệ thuật của 2 tác phẩm trên:

  • Lưu biệt khi xuất dương: về nội dung, bài thơ khắc hoạ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng Phan Bội Châu trong buổi ra đi tìm đường cứu nước, vể nghệ thuật, bài thơ nổi bật ở giọng điệu thơ vừa da diết vừa mạnh mẽ, quyết liệt, sục sôi từ đó mà có sức truyền cảm và lôi cuộn người đọc.\
  • Hầu Trời: Bài thơ này ra đời vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX. Vào thời điểm đó, lãng mạn đã là điệu tâm tình chủ yếu của thời đại. Xã hội thuộc địa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau. Người trí thức có lương tri không thể không chấp nhận nhập cuộc, nhưng chống lại nó thì không phải ai cũng đủ dũng khí để làm. Bất bình nhưng bất lực, người ta chỉ có thể mong ước thoát li, làm thơ để giải sầu. Thơ Tản Đà thời này “đã nói lên đúng cái sầu bàng bạc trong đất nước, tiềm tàng trong tim gan người ta” (Xuân Diệu).

Nhưng Tản Đà khác người ở chỗ, ngay từ đầu những năm 20 đã dám mạnh dạn thể hiện bản ngã “cái tồi” của mình với “cái buồn mơ màng, cái cảm xúc chơi vơi” (Xuân Diệu), với khát vọng thiết tha đi tìm một cõi tri âm để có thể khẳng định tài năng, phẩm giá đích thực của minh, bởi chẳng thể nào trông đợi ở “cõi trần nhem nhuốc bao nhiêu sự này”. Cái ngông của Tản Đà cũng là ở đó.

+ Tính chất giao thời (giữa văn học trung đại và hiện đại) của 2 tác phẩm nói trên

  • Bài Xuất dương lưu biệt:Về thi pháp cơ bản vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại (thể thơ Đường luật, hình ảnh ước lệ…). Nét mới ở bài thơ là chất lãng mạn hào hùng toát ra từ nhiệt huyết cách mạng sôi nổi của nhà cách mạng Phan Bội Châu.
  • Bài Hầu trời:Hình thức vẫn theo lối thơ cổ, cách dùng từ, hình ảnh, cách diễn đạt vẫn mang dấu ấn văn học trung đại nhưng sự cách tân tương đối rõ: thể thơ trường thiên khá tự do; đặc biệt là bài thơ đã thể hiện một “cái tôi” cá nhân phóng túng, ý thức được tài năng và khát khao khẳng định mình giữa cuộc đời.

=> Nhìn chung, ở hai bài thơ vừa nói về mặt nội dung đã có những nét mới nhưng về thể thơ, thi pháp cơ bản vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại.

Câu 3(Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II): Qua việc phân tích, so sánh các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà, Vội vàng của Xuân Diệu, hãy làm rõ quá trình hiện đại hóa thơ ca thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trả lời:

Quá trình hiện đại hóa thơ ca thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 được thể hiện khá rõ qua các bài thơ (Lưu biệt khi xuất dương) của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà và Vội vàng của Xuân Diệu.

+ Quá trình hiện đại hoá thơ ca từ giai đoạn đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng 8/1945 trải qua 3 giai đoạn:

– Giai đoạn đầu (từ đầu thế kỉ XX đến khoảng năm 1920) thành tựu quan trọng hơn cả của văn học là thơ ca của các chí sĩ cách mạng tiêu biểu là Phan Bội Châu. Nội dung tư tưởng trong sáng tác của những nhà thơ này đối khác so với thơ ca thế kỉ XIX trước đó nhưng về mặt nghệ thuật vẫn thuộc phạm trù trung đại vì được viết theo phi pháp trung đại. Điều này thể hiện rõ trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu. Trong bài thơ này, vẻ đẹp hào hùng lãng mạn của nhà cách mạng buổi lên đường tìm phương cứu nước là lẽ sống mới, quan niệm mới về chí làm trai nhưng được thể hiện bằng thi pháp và ngôn ngữ văn học trung đại.

– Giai đoạn hai (khoảng từ 1920 đến 1930): Văn học thời kì này đã đổi mới đạt những thành tựu đáng ghi nhận, đã có tính hiện đại nhưng những yếu tố của thi pháp văn học trung đại vẫn còn khá phổ biến nhất là trong thi ca.

Bài thơ Hầu Trời của Tản Đà thể hiện rõ tính chất vừa nói. Trong bài thơ này, “cái tôi” cá nhân phóng túng, tự ý thức về tài năng giá trị đích thực của mình và khao khát tự khẳng định mình đã xuất hiện, ở đây, thi sĩ cũng đã bộc lộ một quan niệm mới mẻ về nghề văn. Cách chia khổ thơ ở đây cũng chưa từng thấy trong thơ ca trung đại. Tuy nhiên, cái tôi cá nhân phóng túng của Tản Đà vẫn còn phảng phất tinh thần cái ngông của các nhà thơ cuối thời trung đại như Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương. Vì vậy bài thơ Hầu Trời vẫn chưa được xem là hiện đại và thơ ca của Tản Đà có thể xem như cái gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: thời trung đại và thời hiện đại.

– Giai đoạn ba (khoảng 1930 đến 1945) nền văn học nước nhà đã hoàn thành quá trình hiện đại hóa. Phong trào thơ mới dấy lên từ năm 1932 được đánh giá là “một cuộc cách mạng trong thơ ca” (Hoài Thanh – Thi nhân Việt Nam). Các bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính được xem là những thành tựu tiêu biểu thể hiện rõ những đặc trưng của thơ mới. Đây là tiếng nói nghệ thuật của “cái tôi” tự giải phóng, bứt phá khỏi hệ thống ước lệ của thi ca trung đại, trực tiếp quan sát thế giới là nội tâm mình bằng cặp mắt cá nhân xanh non tươi mới, đồng thời cảm thấy bơ vơ, cô đơn trước vũ trụ và con người.

Câu 4(Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II): Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ vội vàng của Xuận Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính, Chiều xuân của Anh thơ?

Trả lời:

+ Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của vội vàng- Xuân Diệu

Vội vàng là một bài thơ rất Xuân Diệu. Xuân Diệu ở trái tim sôi sục, ở cặp mắt xanh non háo hức, ở sự khẳng định cái Tôi, trong quan hệ gắn bó với đời, ở nhịp thơ hăm hở, cuống quýt, ở hình ảnh rất tạo bạo đầy rẫy cảm giác và có tính sắc dục, ở cú pháp rất Tây và lối qua hàng hết sức thoải mái …

Bài thơ thể hiện rất rõ ý thức cá nhân của “cái tôi” Thơ mới, vừa mang đậm bản sắc riêng của hồn thơ Xuân Diệu, Vội vàng là lời giục giã hãy sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của đời mình, nhất là những tháng năm tuổi trẻ của một tâm hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt.

+ Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của Tràng giang – Huy Cận

Sử dụng thành công các loại từ láy: láy âm (Tràng Giang, đìu hiu, chót vót, …), láy hoàn toàn (điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn, …). Các biện pháp tu từ: nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, …

Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính, với cách ngắt nhịp quen thuộc tạo nên sự cân đối, hài hòa. Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn/ vô hạn; nhỏ bé/ lớn lao; không/ có; …

+ Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử

Bút pháp của nhà thơ sử dụng trong bài thơ này kết hợp hài hòa điệu tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình. Cảnh đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tầm cao tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn. Nét chân thực của cảm xúc làm đậm thêm chất trữ tình.

Tứ thơ là ý chính, ý lớn bao quát bài thơ, là điểm tựa cho sự vận động cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng toàn bài thơ. Ở bài thơ này, tứ thơ bắt đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dòng sông Hương, từ đó là khơi gợi liên tưởng thực – ảo và mở ra bao nhiêu nỗi niềm cảm xúc, suy tư về cảnh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm, uẩn khúc, niềm hi vọng, niềm tin yêu.

+ Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của Tương tư – Nguyễn Bính

Bài thơ thể hiện nỗi nhớ thương đơn phương da diết của một tình nhân. Từ đó, bài thơ gợi sự đáng yêu, đáng quý của tình yêu, đồng thời cũng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người.

Thơ Nguyễn Bính có một điệu riêng. Bài thơ này cũng vậy. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyễn Bình đã đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương của quê hương đất nước và một tình người đằm thắm, thiết tha.

+ Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của Chiều xuân – Anh Thơ

Bài thơ miêu tả về một buổi chiều ở làng quê. Đó là một buổi chiều xuân ở làng quê Bắc bộ. Nơi đó, có khung cảnh, cuộc sống yên ả

Bài thơ tả cảnh nhưng lại gợi ra rất rõ cái không khí và nhịp sống muôn đời, ở nông thôn ta thời trước, đó là sự bình yên. Con đò nằm biếng lười, quán vắng, những cánh bướm rập rờn, những đàn trâu thong thả… tất cả đều có dáng khoan thai. Tron” bài thơ, thi sĩ đã sử dụng rất nhiều từ láy để dựng cảnh, hay nói đúng hơn là để gợi cái trạng thái tinh thần của cảnh: mưa thì êm êm, quán tranh đứng im lìm, hoa xoan rụng tơi bời, đàn sáo mô vu vơ, mấy cánh bướm rập rờn, những trâu bò thong thả… Trong các từ láy đã nêu, trừ từ tơi bời, các từ láy còn lại đều là những từ láy có tính chất giảm nhẹ: êm êm, vu vơ, rập rờn, thong thả,… và hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động thì diễn tả trạng thái đều đều của chủ thể. Rõ ràng trong tổng thể bài thơ, chính sự kết hợp của những từ láy này đã giúp thể hiện nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, yên ả, thanh bình của cảnh chiều xuân cũng như nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả.

Câu 5(Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II): Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài Chiều tối, Lai tân của Hồ Chí Minh, Từ ấy, Nhớ đồng của Tố Hữu?

Trả lời:

+ Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của Chiều tối – Hồ Chí Minh

  • Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa cổ những nét cổ điển (bút pháp chấm phá, ước lệ với những thi liệu cũ) vừa có nét hiện đại (bút pháp tả thực sinh động với những hình ảnh dân dã, đời thường). Bài thơ chủ yếu là gơi tả chứ không phải là miêu tả, vì thế mà có thể cảm nhận tính chất hàm súc của thơ rất cao.
  • Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả lại vừa gợi cảm {quyện điểu, cô vân). Biện pháp láy âm vắt dòng ở câu 3 và câu 4 tạo nhịp thơ khoẻ khoắn. Ngoài ra bài thơ có những chữ rất quan trọng, có thể làm “sáng” lên cả bài thơ, ví như chữ “hồng” trong càu thơ cuối chẳng hạn.

+ Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của Lai Tân – Hồ Chí Minh

  • Bài thơ cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là yên ấm, tốt lành.
  • Bài thơ có một cách cấu tứ bất ngờ. Ba câu thơ đẩu chỉ thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thơ thứ tư. Nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài. Nó làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai hướne đến sự thối nát đến tận xương tuỷ của cái xã hội Tưởng Giới Thạch.
  • Bài thơ cũng in đậm cái bút pháp chấm phá của thơ Đường. Lời thư ngắn gọn, súc tích. Không cầu kì câu chữ, nhưng có thể nói: chỉ với bốn câu thơ ngắn, nhà thơ đã vẽ nên cái bản chất của cả một chế độ xã hội mục nát đến vô cùng. Sức chiến đấu, chất “thép” của bài thơ nhẹ nhàng mà quyết liệt chính là ở đó.

+ Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của Từ ấy -Tố Hữu

  • Bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bàng’ những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ gợi cảm (nhất là biện pháp tu từ ẩn dụ) và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.
  • Nhạc điệu của bài thơ trước hết được tạo ra từ thể thơ thất ngôn – vốn mang âm điệu trang trọng. Cách ngắt nhịp trong bài thơ liên tục thay đổi qua các câu thơ, ví dụ: Từ ấy trong tôi/ bừng nắng hạ… Hồn tôi/là một vườn hoa lú… Gần gũi nhau/thêm mạnh khối đời… Hệ thống vần cuối của các câu thơ cũng rất phong phú, có sức vang ngân, bởi nó chủ yếu là các âm mở, như: hạ – lá; người – nơi – đời; nhà – pha…

+ Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của Nhớ đồng – Tố Hữu

  • Bài thơ là niềm yêu quý thiết tha và nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với quê huơng, đồng thời thể hiện niềm say mê lí tưởng và khát khao tự do, khát khao hành động của nhà thơ.
  • Bài thơ dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhiều biện pháp điệp (điệp từ, điệp cú pháp), điệu thơ nhẹ nhàng, ngôn từ trong sáng, thiết tha, giàu sức lôi cuốn.

Câu 6(Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II): Cái đẹp, cái hay, sức hấp dẫn của bài thơ Tôi yêu em (Pu-skin)?

Trả lời:

Cái đẹp, cái hay, sức hấp dẫn của bài thơ “Tôi yêu em” (Puskin):

Đề tài tình yêu là chủ đề quan trọng trong thơ của Puskin. Và bài thơ Tôi Yêu Em là một bài thơ điển hình. Ở đó, chúng ta cảm nhận được sự cao thượng, nhân ái trong tình yêu. Đôi lúc nhẹ nhàng, nhưng đôi lúc lại vô cùng mạnh liệt. Puskin ca ngợi tình yêu chân thành, đã yêu thì sẽ dành hết tâm trí, dành hết những gì có thể cho người mình yêu.

– Sức hấp dẫn về nội dung, tư tưởng: Bài thơ bày tỏ một tình yêu đơn phương chân thành, trong sáng, giản dị nhưng rất đỗi cao thượng. Qua đó, ta cảm nhận và khâm phục trước một tâm hồn đáng mến, đáng trân trọng.

– Sức hấp dẫn về nghệ thuật: ngôn từ giản dị, chân thành; giọng điệu lúc trầm lắng, lúc dồn nén, lúc lại bùng cháy; điệp khúc “tôi yêu em” đem lại sự nhịp nhàng, đằm thắm.

Câu 7(Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II): Phân tích hình tượng nhân vật Bê-li-cốp trong truyện ngắn Người trong bao (Sê-khốp).

Trả lời:

+ Bài tham khảo:

Một tác phẩm truyện ngắn hay và chân chính trước hết có lẽ hấp dẫn người đọc bởi hình tượng nghệ thuật độc đáo, điển hình. Bởi đó là tài năng và tâm huyết của người nghệ sĩ lăn lộn trong hành trình cuộc đời để góp nhặt nên những tính cách và số phận để qua đó gửi gắm thông điệp nhân văn. Với Sê-khốp, con linh điểu của buổi tịch dương trên đồng cỏ dại nước Nga xưa, với hình tượng Bê-li-cốp trong truyện ngắn “Người trong bao” đã cho thấy số phận bi kịch của người dân Nga lúc bấy giờ.

Bê-li-cốp là một sản phẩm quái thai mà xã hội chuyên chế Nga hoàng nặng nề đã sản sinh ra. Hắn là người trong bao. Trang phục của hắn trông thật kì dị: chân đi giày cao su, tay cầm ô, thân thể mặc áo măng tô cốt bông. Ô hắn để trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao bằng da hươu, cả bộ mặt hắn dường như lúc nào cũng để trong bao nốt. điều ấy chứng tỏ, hắn sợ nắng gió, hắn sợ mưa tuyết của thiên nhiên cũng như cuộc đời. Vật dụng của hắn từ cái dao cắt giấy hắn cũng để trong bao nốt, qua đó thấy được rằng hắn sợ mất đồ, sợ bị thất lạc. Hắn sợ cả những điều tưởng như không có gì để đáng sợ. Nhân dạng hắn thì hắn dấu mặt trong chiếc áo bành tô, tai nhét bông chứng tỏ hắn sợ nghe, sợ nhìn sợ phải đối mặt với mọi điều xung quanh. Nghề nghiệp của hắn là dạy tiếng Hy Lạp một thứ ngôn ngữ cổ và khó hiểu, trong khi cả thế giới đang không ngừng hướng đến những điều mới mẻ thì hắn đi ngược lại với thế giới, với thực tại.

Với mọi người xung quanh, hắn đến nhà và không nói chuyện chỉ ngồi im một chỗ khoảng chừng 15 phút rồi ra về. Hắn cho đó là cách để giao tiếp với mọi người xung quanh. Điều ấy chứng minh rằng, hắn cũng sợ cô độc, sợ mất mối quan hệ nhưng lại luôn giấu giếm và sợ sệt tất cả mọi thứ, tức là hắn sợ chịu trách nhiệm với lời nói của mình. Đến cả trong tình yêu, dường như hắn cũng muốn nhốt nó vào bao nốt. hắn muốn cầm tù tình yêu của mình, cái bao đấy chính là không được tiếp xúc với cái mới. Như vậy hắn sợ cái mới, mô lệ vào cái cũ, cầm tù chính mình và hắn chết ngay cả khi còn đang sống, từng giờ, từng phút, từng giây hắn đang chết trong chiếc báo sợ hãi mà chính hắn tạo ra. Qua đó phản ánh chân thực số phận của những người dân Nga dưới chế độ Nga Hoàng nặng nề chuyên chế đã sản sinh ra những con người tự do về thân thể nhưng lại bị cầm tù về tâm hồn, chết ngay cả khi đang sống. thật đáng sợ biết bao, qua đó bày tỏ niềm cảm thương cho số phận những người dân nước Nga xưa của Sê-khốp.

Bằng tài năng xây dựng những hình tượng điển hình hấp dẫn và lôi cuốn người đọc Sê-khốp đã giúp người đọc nhìn thấy sâu sắc và chân thật xã hội Nga lúc bấy giờ, bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc cho những thân phận bi kịch ấy.

Câu 8(Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II): Phân tích hình tượng nhân vật Giăng Van-giăng trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền

Trả lời:

+ Bài tham khảo:

Văn học đã đưa chúng ta đến với những thế giới tâm hồn phong phú và giàu tình yêu thương. Nơi đó, ta thấy lòng mình nhẹ nhàng và an yên đến lạ, bởi qua từng lời thơ, qua từng dòng văn, qua từng nhân vật mà các tác giả xây dựng, ta thêm hiểu rằng giữa vô vàn những bất công, những khổ đau, những ngang trái thì vẫn còn đó những trái tim yêu thương, những con người tràn trề nhựa sống và sự bao dung, những con người mang lẽ sống cao đẹp dành cho nhau. Đọc “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” trong những người khốn khổ của V. Huy-go em lại càng thêm yêu, thêm quý cuộc đời. Và càng thêm trân trọng những giá trị tốt đẹp, thêm cảm phục trước một tâm hồn, một nhân cách cao quý Jean Valjean, một hình tượng nhân vật lý tưởng tiêu biểu của văn học.

Không may mắn như bao người, Jean Valjean có một cuộc đời đầy biến cố. Chỉ vì ăn cắp một mẩu bánh mì cho đứa cháu nhỏ đang đói khát cùng cực mà phải chịu cảnh tù giam trong hai mươi mốt năm tù giam, để rồi khi ra tù nhận lại được tấm giấy thông hành vàng, tấm giấy mà đi đến đâu cũng bị người ta xua đuổi vì đã từng mang án tù. Bằng tình thương của vị giám mục Myriel đã cứu vớt ông, và ông lấy đó làm lẽ sống cho cuộc đời mình. Để cứu một kẻ đã bị bắt oan, ông buộc phải ra đầu thú trước tên hống hách Javert – kẻ lấy uy quyền của pháp luật làm kim chỉ nam cho công việc và cuộc đời hắn. Biết được cuộc sống khổ cực và chịu bao tủi nhục của Fantine, ông luôn thấy xót xa và muốn chăm sóc giúp đỡ cho chị. Điều duy nhất ông quan tâm lúc này là cứu được người phụ nữ đang phải đứng trước cái chết và tìm được người con gái của chị. Trong cơn tàn ác, bạo ngược của Javert, ông đã phải van nài, cầu xin hắn cho thời hạn ba ngày hoàn thành lời hứa với Fantine cứu con gái – đó là tia hy vọng, là sự cứu vớt cuối cùng cho sự sống của chị nhưng Javert đã nhẫn tâm dập tắt nó.

Jean Valjean đã tận tâm, chăm sóc và lo chu đáo cho bệnh tình ngày một tồi tệ của Fantine. Ông lo lắng rằng bởi dù chỉ một cú sốc, một chút không mấy khả quan thôi cũng khiến cái chết xảy đến với người phụ nữ bất hạnh đó vào bất kỳ lúc nào. Ông hiểu với Fantine, thì đứa con quan trọng biết nhường nào. Người phụ nữ tội nghiệp ấy xứng đáng nhận được sự quan tâm và tình yêu thương. Khi những lời lẽ tàn nhẫn của Javert đã dẫn đến cái chết đầy thương tâm của Fantine, ông đau xót vô cùng, người như chết lặng đi, vuốt lại mái tóc cho chị và thì thầm bên tai chị những lời cứu cánh khiến chị mỉm cười an lòng mà nhắm mắt. Ông dùng những cử chỉ nhẹ nhàng và đầy tình yêu thương nhất dành cho Fantine. Đó là những tình cảm quá đỗi cao đẹp của một thị trưởng đầy tình thương và trách nhiệm, một con người đồng cảm và biết sẻ chia với nỗi đau của đồng loại. Một người bản lĩnh và sẵn sàng dang rộng vòng tay cưu mang những kẻ khốn khó, nghèo khổ, bi thương hơn mình. Một người sống và hết mình vì người khác. Bằng sức mạnh của tình thương ấy, Jean Valjean đã giúp cho Fantine ra đi trong thanh thản, mỉm cười an nhiên như một sự tin tưởng, ăn tâm gửi gắm nơi người thị trưởng đáng kính. Với người bệnh, ông luôn dành sự quan tâm nhẹ nhàng và chu đáo nhất. Đứng trước một kẻ hống hách, bạo ngược, ông điềm tĩnh, dũng cảm và kiên cường khiến Javert phải khiếp sợ.

Bằng quyền lực của lòng tốt, sự vị tha và quyền lực của chính nghĩa ông đã trở nên người cầm quyền dũng cảm và quyết liệt, khiến “kẻ thanh tra” chuyên quyền phải sợ hãi, cúi đầu. Hình tượng nhân vật Jean Valjean luôn còn mãi trong trái tim mỗi người qua bao thế hệ. Thứ ánh sáng bao la của tình thương đã cứu rỗi biết bao con người, bao tâm hồn đang cằn cỗi cần lắm sự yêu thương. Qua tác phẩm, em càng thấm thía hơn về cuộc sống và con người, hơn hết giữa cuộc đời này, cái quý giá nhất vẫn là tình yêu thương và sự trân trọng dành cho nhau. Bởi lẽ, “trên đời này chỉ có một điều ấy thôi, đó là thương yêu nhau”.

(Soạn Ôn tập phần văn học (Kì II)