Mở bài

Người bà là nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều nhà thơ, nhà văn. Trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, ông thể hiện nỗi nhớ với người bà hiền hậu, tần tảo gắn liền với bếp lửa mỗi sớm mai. Và hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cảm xúc và dòng hồi tưởng của giả về bà. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy được tình cảm chân thành, nồng đượm của người bà và người cháu nay đã trưởng thành, bay xa với ước mơ.

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm

Bằng Việt có tên thật là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941. Ông quê ở Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Nhà thơ Bằng Việt là tác giả trưởng thành trong cuộc kháng chiến Mĩ cứu nước. Bằng Việt làm thơ từ rất sớm, từ năm ông 13 tuổi. Bài thơ đầu tiên của ông được công bố là “Qua Trường Sa”. Năm 1968, tập thơ đầu tay của ông và nhà thơ, nhà văn Lưu Quang Vũ là Hương cây – Bếp lửa được xuất bản và được tái bản gần đây. Bằng Việt từng là Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam và Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội.

phan-tich-kho-6-bai-bep-lua

Điểm nổi bật của thơ Bằng Việt là giọng điệu tâm tình, cảm xúc tinh tế và trầm lắng, giúp tạo sức lôi cuốn với người đọc. Bài thơ “Bếp lửa” được Bằng Việt viết năm 1963, khi ông đang học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ là câu chuyện cảm động về tình cảm bà cháu. Khổ cuối bài thơ thể hiện dòng hồi tưởng chân thành của giả về người bà của mình.

Thân bài

Con người khi lớn lên thường hoài niệm về những kỉ niệm tuổi thơ. Đó là kỉ niệm với cha mẹ, với ông bà. Trong bài thơ “Bếp lửa”, Bằng Việt hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ với hình ảnh người bà tần tảo, hiền hậu. Và hình ảnh luôn diện diện cùng ba là bếp lửa. Bếp lửa đã khơi nguồn cảm xúc để tác giả thể hiện nỗi nhớ qua bài thơ. Xuyên suốt tác phẩm thơ, Bằng Việt khắc họa chân thật và rõ nét hình cảnh người, qua đó thể hiện niềm nhớ và tình yêu thương, cảm phục đối với người bà thân yêu của mình.

Kỷ niệm tuổi thơ bên bà là được bà chăm dạy, cùng bà lớn lên mỗi ngày. Lúc này, khi ở xa quê hương, mọi ký ức ùa về trong tâm trí tác giả, khiến ông xúc động. Và tác giả viết nên những dòng thơ tâm tình  ẩn chứa triết lí sâu xa mà ta sẽ thấy khi phân tích khổ 6 bài bếp lửa:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.

Ở khổ đầu bài thơ, hình ảnh người bà “biết mấy nắng mưa”. Sự xuất hiện thêm lần nữa ở khổ thơ cuối như một sự nhấn mạnh cuộc đời cơ cực của bà. Hai chữ “lận đận” là gói gọn cuộc đời bà. Bà âm thầm chịu đựng bao vất vả, khó khăn, gian nan, nguy hiểm để chăm sóc cháu, để con cái yên tâm chiến đấu ở mặt trận kháng chiến.

Sau này, dù chiến tranh đã qua, nhưng nhọc nhằn chưa từng vơi bớt, thói quen dậy sớm bà vẫn giữ. Những gian nan, vất vả trong đời bà dường như không bao giờ dứt. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa, ta thấy người bà luôn thức khuya dậy sớm, chăm sóc, vun vén cửa nhà, dù vất vả nhất bà vẫn luôn là người nhóm lên ngọn lửa yêu thương ấm áp trong gia đình:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Trong đoạn thơ này, từ “nhóm” được lặp lại nhiều lần nhằm khẳng định, không ai khác chính là bà đã làm nhen và thổi bùng ngọn lửa tình yêu thương trong lòng cháu. Khi “nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”, là bà đang dạy cháu về tình yêu thương ruột thịt, tình yêu thương trong gia đình. Khi nhóm “khoai sắn ngọt bùi” là giúp cháu hiểu về tình nghĩa làng xóm, về tình yêu hương dù là mảnh đất nghèo. Khi bà “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, cháu học được từ bà tấm lòng rộng mở, luôn biết chia sẻ với mọi người xung quanh.

phan-tich-kho-6-bai-bep-lua1

Qua phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy người bà cũng nhắn nhủ cháu rằng, không được quên những năm tháng gian khó mà đầy nghĩa tình mà hai bà cháu đã cùng nhau trải qua. Bà không chỉ nhóm lên ngọn lửa ấm nồng và sáng mãi trong lòng mọi người, bà còn chăm sóc, dạy dỗ, bồi đắp ở cháu một tấm lòng nhân hậu và ước mơ, lẽ sống.

Bằng bếp lửa khó khăn, nhọc nhằn, bà đã nuôn cháu lớn khôn. Giờ đây, cháu bay xa với ước mơ, du học tận nước Nga xa xôi, cháu phải xa bà, xa quê hương. Trong cuộc đời cổ tích của cháu, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng cháu tiến lên từng bước. Từ cuộc đời nghèo khổ bên bếp lửa ấm nồng tình yêu thương của bà, bà đã ươm mầm ước mơ, hoài bão nơi cháu. Những gì cháu đạt được, thành công cháu có được hôm nay là nhờ có ngọn lửa ấm của bà mỗi sáng chiều.

Cháu dù trưởng thành về thể xác, nhưng nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa của bà, bằng tấm lòng yêu thương của bà, tâm hồn cháu có lẽ không thể lễ nghĩa ở đời. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy, người bà mang một sức mạnh kì diệu, đã nuôi lớn tâm hồn cháu với biết bao tình cảm, nghĩa tình cao đẹp, ươm mầm và chắp cánh cho người mơ bay cao, bay xa của cháu.

Và lúc này, cảm xúc của tác giả dâng trào, thể hiện qua âm điệu dạt dào của câu thơ:

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Câu thơ ngắn nhưng đã khái quát những suy nghĩ và tình cảm của nhà thơ Bằng Việt dành cho bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà. Bà là người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa và cũng là người bồi đắp yêu thương, hoài bão cho cháu. Cháu đã trưởng thành, đã bay xa, đã không còn được bên cạnh bà nhưng bà và bếp lửa mãi mãi là một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu và mất đi trong cuộc đời cháu.

Con người ta thường nhớ về những ký ức bên người thân, gia đình khi phải sống xa nhau. Và Bằng Việt cũng vậy. Nhưng giờ đây, dù không được ở gần bên bà, ở xa quê hương nhưng cháu vẫn luôn hướng về quê hương, vẫn da diết nhớ bếp lửa, nơi có bà ngồi đó cô đơn, lặng lẽ:

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhớ:

– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…

Ngày tháng dài trôi qua, đứa cháu bé nhỏ vẫn bên bà năm xưa nay đã lớn khôn, đang dang cánh với ước mơ nơi phương trời xa, được đi nhiều nơi, trải nghiệm nhiều thứ mới mẻ, hạnh phúc. Nhưng cháu vẫn không nguôi nỗi nhớ bà, nỗi nhớ quê hương, nhớ ngọn lửa ấm nồng năm xưa. Câu thơ cuối của bài là một câu hỏi tu từ, cũng như một lời độc thoại, lời tự hỏi mang nỗi nhớ khắc khoải:

– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…

Câu thơ, câu hỏi tu từ ấy cũng khép lại bài thơ một cách khéo léo, gợi lên trong người đọc những day dứt khôn nguôi. Người cháu luôn tự nhắc nhở luôn phải nhớ về bếp lửa, về bà, điểm tựa tinh thần vững vàng cho cháu nơi đất khách quê người. Như vậy, phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy, bếp lửa vừa là một hình ảnh vật lý, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu thương, nguồn cuội gia đình, quê hương.

Nhưng câu cuối ấy chưa phải phải là kết thúc bài thơ, mà dấu chấm lửng ở cuối bài cũng để lại những nhiều suy ngẫm. Dấu câu gợi ra bài học đạo lý sống nhân nghĩa, chung thủy, phải biết ơn, nhớ về gia đình, hàng xóm, gia đình, nguồn cội.

Kết luận

Quả thực, “bếp lửa” là một hình ảnh gần gũi nhưng được Bằng Việt sáng tạo thành một hình tưởng mang ý nghĩa tượng trưng điển hình. Bài thơ vì thế mang triết lí sâu sắc. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy rõ nhất triết lí ấy. Đó là ký ức tuổi thơ tươi đẹp, đầy tình yêu thương sẽ là sức mạnh nâng đỡ con người, giúp mỗi người kiên trì, tỏa sáng trong hành trình cuộc đời riêng mình. Và chính từ thân, tình hàng xóm bình dị sẽ khởi nguồn cho tình yêu quê hương đất nước.