Soạn Bài ca ngắn đi trên bãi cát Trang 40-42 Ngữ văn 11 Tập 1

HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Câu 1(Soạn bài ca ngắn đi trên bãi cát): Phân tích ý nghĩa tượng trưng của các yếu tố tả thực hình ảnh người đi trên cát.

Trả lời:

– Tác phẩm ra đời khi tác giả nhiều lần đi vào kinh đô Huế dự thi, phải băng qua những bãi cát dài, mênh mông không biết đích đến. Chính trong hoàn cảnh đó ông đã sáng tác “Sa hành đoản ca” thể hiện thái độ trước hiện thực đời sống và phương danh lợi tầm thường.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bãi cát dài nuối tiếp nhau đến tận chân trời và trên nền không gian rộng lớn ấy người lữ khách đang từng chút cố gắng vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt.

Bãi cát dài lại bãi cát dài,

Đi một bước như lùi một bước.

Câu thơ không chỉ mang ý nghĩa tả thực về những bãi cát nối tiếp nhau và những bước chân nặng nề của người lữ khách trên con đường đó. Hình ảnh bãi cát được nhắc đi nhắc lại (điệp ngữ), gợi lên một không gian khó khăn, nhọc nhằn. Trên bãi cát ấy là con đường rộng lớn nhưng mờ mịt, không xác định được phương hướng. Đó không phải là con đường thực mà là con đường theo nghĩa tượng trưng. Trên con đường ấy là hình ảnh nhà thơ với giấc mộng danh lợi thôi thúc bước đi.

– Mờ mịt, núi muôn lớp, sóng muôn đợt, một sa mạc cát mênh mông vô tận, bãi cát lại bãi cát, một người đi đến mặt trời lặn vẫn chưa thôi, vừa đi vừa lệ tuôn đầy.

– Từ con đường thực nhiều lần đi qua để về kinh ứng thí, Cao Bá Quát đã sáng tạo thành một con đường đến danh lợi với nhiều khó khăn trong bài thơ. Con đường thực đi trên cát đã thành con đường theo danh lợi trong bài ca. Qua đó cũng thể hiện được nỗi niềm day dứt, đau xót của tác giả đi trên con đường tìm lý tưởng nhưng xã hội bù nhìn không cho ông lối thoát.

Câu 2(Soạn bài ca ngắn đi trên bãi cát): Hãy giải thích nội dung và chỉ ra sự liên kết ý nghĩa của sáu câu thơ: Không học được ông tiên phép ngủ – Trèo non, lội suối, giận khôn vơi! – Xưa nay, phường danh lợi – Tất tả trên đường đời – Đầu gió hơi men thơm quán rượu – Người say vô số, tỉnh bao người? (Chú ý: Danh lợi có sức cám dỗ như thế nào?)

Trả lời:

Nhận thức về con đường danh lợi của Cao Bá Quát được thể hiện qua sáu câu thơ:

Không học được tiên ông phép ngủ,

Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

Xưa nay, phường danh lợi

Người say vô số, tỉnh bao người?

“Không học được ông tiên phép ngủ

Trèo non lội suối giận không nguôi”

Hai câu trên thể hiện sự chán nản của tác giả đó là tâm trạng chán nản khi ghét phường danh lợi nhưng vẫn muốn lao theo nó để giờ trèo đèo lội suối vất vả và con đường trước sẽ có bao nhiêu gian nan nguy hiểm đang chờ phía trước. Nhà thơ tự giận mình đã chúa ghét phường danh lợi mà vẫn lao theo như quy luật của xã hội. Biết rằng nó hấp dẫn như hơi men, biết người say thì nhiều mà người tỉnh thì ít, chính nhà thơ cũng đang biết đang tỉnh nhưng lại không thể dứt ra được nên trở nên chán nản hoài nghi, giận chính mình.

Bốn câu tiếp theo, tác giả khái quát sâu sắc con đường danh lợi với sự cám dỗ ghê gớm của cái bả công danh đối với con người. Nhà thơ tự hỏi mình và mọi người rồi tự trả lời bằng hình ảnh nghệ thuật “người say vô số, tỉnh bao người”.

Tác giả đã dùng nhiều đại từ nhân xưng khác nhau để chỉ nhân vật trữ tình của mình qua đó tác giả có thể đặt mình ở nhiều góc nhìn khác nhau để cảm nhận và đồng thời nhà thơ có thể tự đọc thoại hay đối thoại với chính mình. Cao Bá Quát thể hiện được mẫu thuẫn trên con đường đi tìm lý tưởng của mình. Đứng trước hiện thực nghiệt ngã, mù mịt cho thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình ở đây rất phức tạp, không biết đi đâu về đâu.

Các câu cảm thán (Trèo non, lội suối, giận khôn vơi! Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!) câu hỏi tu từ (Người say vô số, tỉnh bao người? Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít? Anh đứng làm chi trên bãi cát?) thể hiện được tâm trạng bế tắc, băn khoăn, day dứt đến tột cùng của tác giả và khao khát cháy bỏng tìm ra con đường đúng cho mình.

Danh lợi có tác dụng cám dỗ ghê gớm mà không ai có thể cưỡng lại được. Ngay cả tác giả cũng biết điều đó nghĩa là mình nửa tỉnh nửa say thế nhưng vẫn đứng hoài làm chi trên bãi cát dài lại bãi cát dài ấy. Qua đây nhà thơ bộc lộ tâm trạng cùng những thái độ của mình về nền giáo dục nước nhà. Phải chăng ông đã góp cho nền văn học Việt Nam một bài thơ hay đồng thời là một ý kiến cho đất nước về sự nghiệp khoa cử.

Câu 3(Soạn bài ca ngắn đi trên bãi cát): Tâm trạng của lữ khách khi đi trên bãi cát là gì? Hãy cho biết tầm tư tưởng của Cao Bá Quát thể hiện qua tâm trạng đó.

Trả lời:

Tâm trạng của tác giả khi đi trên bãi cát là trạng chán nản được thể hiện rất rõ qua 6 câu đầu và tâm trạng mệt mỏi rã rời, bế tắc được thể hiện qua 4 câu thơ cuối. Tầm tư tưởng cao rộng của nhà thơ chính là ở chỗ đã nhận ra tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử, của con đường công danh theo lối cũ. Sự vô nghĩa của chế độ khoa cử làm ông muốn thoát ra khỏi chúng.

Câu hỏi ở câu thơ cuối cùng chính là lời nhắc nhở, thúc giục bản thân tác giả nên tìm kiếm lối thoát, tìm kiếm một đường đi mới, thoát khỏi bãi cát dài càng đi càng lún. => tư tưởng rộng lớn, sâu sắc.

Từ chỗ đi trên cát mà liên tưởng đến chuyện lợi danh, đến chốn quan trường là một sự liên tưởng sáng tạo mà lôgic. Người đi trên cát sa lầy vào trong cát chẳng khác nào công danh, bổng lộc giống như cái bả lôi kéo con người, làm cho con người mê muội. Khi nhận thức ra con đường danh lợi khó khăn, tác giả như đặt ra cho mình một chọn lựa: phải thoát ra khỏi con đường danh lợi.

Tác giả đã nhận ra tính chất vô nghĩa của con đường khoa cử, của con đường công danh theo lối cũ. Tuy tác giả chưa tìm ra cho mình một con đường nào khác, song cũng cho thấy ông đã nhận ra rằng bản thân mình không thể bước mãi trên bãi cát đầy khó khăn và vô vị đó.

Câu 4: Phân tích ý nghĩa của nhịp điệu bài thơ đối với việc diễn tả cảm xúc và suy tư của nhân vật trữ tình.

Trả lời:

Bài ca ngắn đi trên bãi cát là một bài thơ thuộc loại cổ thể có phần tự do về kết cấu, về vần và nhịp điệu.

Nhịp điệu của bài thơ này được tạo nên chủ yếu nhờ sự thay đổi độ dài của các câu thơ cũng như sự khác nhau trong cách ngắt nhịp của mỗi câu thơ, đem lại khả nãng diễn đạt phong phú, độc đáo. Những câu thơ năm chữ với nhịp 2/3 mô phỏng bước đi khó nhọc trên bãi cát. Nhịp điệu của bài thơ lúc nhanh, lúc chậm, lúc dàn trải, lúc dứt khoát. Nhịp điệu ấy có ý nghĩa rất lớn trong việc miêu tả bước đi của người đi trên bãi cát, đầy khó khăn, vất vả.

Bài thơ có những câu thơ với từng cặp đối xứng với số lượng chữ không đều nhau: 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ. Cách ngắt nhịp khá linh hoạt, khi thì là nhịp 2/3 (Trường sa/ phục trường sa), khi là 3/5 (Quân bất học/ tiên gia mĩ thuỵ ông), khi lại là 4/3 (Phong tiền tửu điểm/ hữu mĩ tửu). Câu cuối cùng (Quân hồ vi hồ sa thượng lập?) không có cặp đối, như một câu hỏi buông ra đầy ám ảnh. Nhịp điệu diễn đạt sự gập ghềnh, trúc trắc của những bước di trên bãi cát dài, tượng trưng cho con đường công danh đáng ghét vậy.

Nhịp điệu ấy cũng thể hiện được tâm tư trĩu nặng suy tư của nhà thơ về con đường danh lợi mà nhà thơ đang đi. Những lúc dừng lại suy nghĩ, câu thơ lại kéo dài ra, nhịp thơ cũng biến hóa phù hợp. Từng nhịp điệu của bài thơ chính là tâm trạng khi khó nhọc, khi day dứt, khi đau khổ bước trên con đường của mình.

LUYỆN TẬP

Qua bài thơ này, anh (chị) hãy thử lí giải vì sao Cao Bá Quát đã khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn.

Trả lời:

+ Nguyên nhân đầu tiên là nguyên nhân chủ quan xuất phát từ bản thân con người Cao Bá Quát:

– Cao Bá Quát là một người tài năng, học rộng, biết nhiều, là một người trí thức trung thực, đầy tinh thần trách nhiệm với đất nước, với cuộc đời mình, và luôn băn khoăn, day dứt về con đường đang đi. Một con người đầy bản lĩnh, quyết không chịu xoáy vào con đường danh lợi như bao người tầm thường khác. Sự băn khoăn trăn trở còn được đẩy lên mức độ căng thẳng với những lời tự tra vấn quyết liệt về lẽ sống, về con đường phải đi thể hiện một nhân cách cao cả, không chịu thỏa hiệp với dục vọng bản thân và với thực trạng xã hội đang tiềm chứa nhiều suy thoái. Ông muốn mang tài năng và sức lực của mình để đóng góp cho sự phát triền, phồn thịnh của nước nhà. Đó cũng là khao khát cống hiến của hầu hết những người trí thức đương thời trong xã hội. Suy nghĩ ấy xuất phát từ chí nam nhi của người quân tử và lòng yêu nước của người con dân tộc. Bản thân ông đã nhìn thấy sự xuống cấp của chế độ xã hội, sự cũ nát, lạc hậu của những kì thi đã không còn giá trị thực tế nữa nên ông muốn được thay đổi cuộc sống, thay đổi để tạo ra một xã hội mới, nơi mà người tài năng như ông được trọng dụng.

+ Nguyên nhân thứ hai là nguyên nhân khách quan xuất phát từ thực trạng của xã hội phong kiến dưới triều Nguyễn.

– Đây là giai đoạn giữa thế kỉ XIX, khi chế độ phong kiến Việt Nam đang trong giai đoạn khủng hoảng trầm trọng. Trong ông luôn tiềm chứa ước muốn đổi thay thực trạng xã hội, quyết không chấp nhận thực tại. Khi ông đã chứng kiến hết cảnh thối nát chốn quan trường, thấy rõ hiện trạng xã hội, lại bị dập vùi không thương tiếc…  Vua ăn chơi trác táng, quan lại tham lam vơ vét của dân, xã hội loạn lạc, đồng tiền chi phối tất cả, mua quan bán tước, người nghèo lầm than…

Chứng kiến cảnh ấy, người trí thức đầy khao khát thay đổi Cao Bá Quát, đã từng bị cuốn theo vòng danh lợi của những cuộc thi, quyết định từ bỏ triều đình thối nát, đứng lên chống lại cả triều đình, để thay đổi lối sống tiêu cực, tăm tối này. Ước muốn đó lại càng mãnh liệt và cuối cùng ông đã quyết định chuyển nó thành hành động phản kháng mãnh liệt.

=> Đó là một phần nguyên nhân giải thích lí do khiến ông đã tham gia cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn.